Đang xử lý.....

Cấu Trúc Hành Chính Công Đan Mạch: Nguyên Tắc và Thực Tiễn

Dịch vụ công của Đan Mạch được biết đến là một trong những khu vực công phi tập trung nhất trên thế giới. Các thành phố và khu vực được xác định theo luật pháp, và quyền tự quản được quy định trong Hiến pháp Đan Mạch cùng với các văn bản luật khác. Việc phân bổ trách nhiệm trong khu vực công tuân theo nguyên tắc rằng các nhiệm vụ có thể được quản lý ở cấp địa phương thì sẽ được thực hiện tại địa phương. Khoảng hai phần ba tổng chi tiêu công được chi trả bởi chính quyền địa phương.

Các vấn đề vướng mắc trong công tác xác định chi phí phần mềm nội bộ trước đây và giải pháp hiện nay

Qua theo dõi các khó khăn, vướng mắc, đề xuất của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, doanh nghiệp, bài viết tổng hợp, phân tích các vấn đề và phương án, giải pháp giải quyết tương ứng với từng vấn đề để xác định chi phí phần mềm nội bộ trong công tác quản lý chi phí đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, lập kế hoạch thuê dịch vụ công nghệ thông như sau:

Hệ số phức tạp kỹ thuật - công nghệ trong phương pháp xác định chi phí phần mềm nội bộ

Các yếu tố kỹ thuật - công nghệ là điều đầu tiên đánh giá khi thực hiện phân tích điểm trường hợp sử dụng, mô tả sự mong đợi của người dùng đối với phần mềm được chuyển giao. Đó là sự đánh giá các yêu cầu phi chức năng của phần mềm. Trong phương pháp xác định chi phí phần mềm nội bộ theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Quyết định số 671/QĐ-BTTTT ngày 26/4/2024 có 13 yếu tố kỹ thuật - công nghệ.

Hệ số tác động môi trường và nhóm làm việc trong phương pháp xác định chi phí phần mềm nội bộ theo chi phí

Ngoài yêu tố về kỹ thuật - công nghệ như đã phân tích ở bài viết trước, một yếu tố tác động đến hiệu suất xây dựng, phát triển, nâng cấp, chỉnh sửa phần mềm đó là yếu tổ tác động môi trường và nhóm làm việc. Đây là các yêu cầu đối với nhóm lập trình phần mềm, đóng góp chính cho sự thành công của một dự án là khả năng, trình độ của nhóm đó. Khi xây dựng, phát triển, nâng cấp, chỉnh sửa phần mềm sử dụng chuyên gia và nhóm lập trình có trình độ càng cao, thì hiệu suất lao động càng lớn, khi sử dụng chuyên gia và nhóm lập trình có trình độ càng thấp thì hiệu suất lao động càng thấp. Trong phương pháp xác định chi phí phần mềm nội bộ theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Quyết

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung định mức chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng ngân sách nhà nước

Định mức chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng ngân sách nhà nước được Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành theo Quyết định số 2378/QĐ-BTTTT ngày 30/12/2016, sau đó được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 1688/QĐ-BTTTT ngày 11/10/2019. Tuy nhiên, Quyết định số 1688/QĐ-BTTTT ngày 11/10/2019 chỉ sửa đổi, bổ sung thành phần trong công thức tính, câu chữ, hướng dẫn; rà soát lại các khái niệm và thống nhất các khái niệm ở các mục khác nhau; bổ sung định mức chi phí tư vấn, quản lý còn thiếu cho hoạt động Lập đề cương và dự toán chi tiết, thuê dịch vụ công nghệ thông tin trên theo các định mức có sẵn và nhân với hệ số điều chỉnh; rà soát làm rõ 1 số nội dung tính dự toán cụ thể. Như vậy, Quyết định

Nghiên cứu sửa đổi đơn giá nhân công trong quản lý chi phí đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước

Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang tích cực, chủ động tận dụng các cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững. Theo xu hướng chung của thế giới, tại Việt Nam chuyển đổi số là một động lực ưu tiên hàng đầu và là chiến lược phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ.

Hệ thống định mức phục vụ công tác đầu tư, mua sắm thuộc lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin

Hệ thống định mức phục vụ công tác đầu tư, mua sắm thuộc lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin là cơ sở để lập và quản lý chi phí đầu tư, mua sắm trong hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, là cơ sở để các cơ quan, đơn vị thẩm định, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm. Tại Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2019 quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và Nghị định số 82/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Chính phủ quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, Chính phủ đã giao Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn xác lập định mức, đơn giá trong từng thời

Kinh nghiệm về phát triển dịch vụ công trực tuyến của quốc gia Estonia

Estonia là quốc gia tiên phong trong việc triển khai chính phủ điện tử và dịch vụ công trực tuyến, tiếp tục củng cố và phát triển mạnh mẽ hệ thống dịch vụ công trực tuyến trong những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2023. Thành công của Estonia trong việc chuyển đổi số các dịch vụ công đã làm gương mẫu cho nhiều quốc gia trên thế giới, và quốc gia này thường được coi là hình mẫu về chính phủ số (e-Government). Mô hình chính phủ số của Estonia không chỉ mang lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp trong nước mà còn thu hút sự quan tâm và học hỏi từ các quốc gia khác trên thế giới.

Các quốc gia tăng cường đầu tư mạnh mẽ trí tuệ nhân tạo AI vào dịch vụ công

Việc đầu tư và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong dịch vụ công đang trở thành xu hướng quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng phục vụ người dân. Đầu tư AI vào các dịch vụ công nhằm xây dựng chính phủ số, là ưu tiên toàn cầu của các quốc gia. Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng trở nên quan trọng hơn trong nhiều lĩnh vực, từ y tế, tài chính, giáo dục, giao thông,…cung cấp các giải pháp cho những vấn đề khó khăn mà con người đang đối diện. Với những lợi ích mà AI mang lại, nhiều quốc gia đang đầu tư mạnh mẽ với mục tiêu trở thành những quốc gia hàng đầu về phát triển AI.

Kinh nghiệm chuyển đổi số các dịch vụ công trong chính phủ (Tiếp phần II)

Chúng ta đã đọc bài viết về kinh nghiệm chuyển đổi số các dịch vụ công trong chính phủ ở phần I, cùng tiếp tục tìm hiểu kinh nghiệm chuyển đổi số các dịch vụ công trong chính phủ ở phần II.