Đang xử lý.....

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM  

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, mở ra nhiều cơ hội cho mỗi quốc gia, đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Kinh tế số đang tăng trưởng nhanh chóng, đặc biệt ở các nước đang phát triển...
Thứ Ba, 28/12/2021 3772
|

1. Mở đầu

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, mở ra nhiều cơ hội cho mỗi quốc gia, đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Kinh tế số đang tăng trưởng nhanh chóng, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Động lực thúc đẩy là do kinh tế và chính trị, đồng thời cũng do đổi mới công nghệ (trong đó đổi mới công nghệ là quan trọng). Tận dụng thành công cơ hội sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam bứt phá, vươn lên.

Bài viết nêu tìm hiểu của tác giả về tình hình phát triển kinh tế số tại Việt Nam.

2. Nội dung

a) Nội hàm kinh tế số

Kinh tế số là các hoạt động kinh tế có sử dụng thông tin số, tri thức số, công nghệ số, dữ liệu số như là các yếu tố sản xuất chính; sử dụng mạng Internet, mạng công nghệ thông tin (CNTT) làm không gian hoạt động; sử dụng công nghệ số, nền tảng số để tăng năng suất lao động và để tối ưu nền kinh tế. Nếu nói đơn giản thì kinh tế số là nền kinh tế liên quan đến công nghệ số.

Có một số cách định nghĩa về kinh tế số, nhưng phần lớn các quốc gia và tổ chức quốc tế đều thống nhất kinh tế số là nền kinh tế dựa trên công nghệ số và nền tảng số, với các hoạt động kinh tế về và bằng công nghệ số và nền tảng số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành trên internet.

Mô hình kinh tế số được biểu diễn như hình sau:

Như thể hiện ở hình trên, kinh tế số bao gồm 3 cấu phần: Kinh tế số ICT/VT, Kinh tế số Internet/nền tảng, và Kinh tế số ngành/lĩnh vực, trong đó:

- Kinh tế số ICT/VT (Kinh tế số ICT) là lĩnh vực công nghiệp CNTT và dịch vụ viễn thông, gồm các hoạt động như: sản xuất phần cứng, sản xuất phần mềm, sản xuất nội dung số, cung cấp dịch vụ CNTT và cung cấp dịch vụ viễn thông;

- Kinh tế số Internet/nền tảng (Kinh tế số internet) gồm các hoạt động kinh tế dựa trên mạng internet như: kinh doanh bằng nền tảng số (như Uber, Grab, Airbnb, …), kinh doanh dựa trên dữ liệu số, kinh doanh các dịch vụ số trực tuyến, và các hình thức kinh doanh dựa trên mạng Internet khác;

- Kinh tế số ngành/lĩnh vực (Kinh tế số ngành) là các hoạt động kinh tế dựa trên việc áp dụng các công nghệ số, nền tảng số vào các ngành, lĩnh vực truyền thống nhằm tăng năng suất lao động, tạo giá trị kinh tế mới, tăng thêm, gồm các hoạt động như: quản trị điện tử, thương mại điện tử, nông nghiệp thông minh, sản xuất thông minh, du lịch thông minh v.v…;

Theo nghiên cứu của nhiều tổ chức uy tín quốc tế, kinh tế số là một trong những động lực chính cho tăng trưởng toàn cầu giai đoạn tới. Kinh tế số giúp tăng năng suất lao động, giúp tăng trưởng kinh tế. Kinh tế số cũng giúp tăng trưởng bền vững, tăng trưởng bao trùm, vì sử dụng tri thức nhiều hơn là tài nguyên; chi phí tham gia kinh tế số thấp hơn nên tạo ra cơ hội kinh doanh cho nhiều người hơn; công nghệ số là không biên giới nên sẽ làm giảm khoảng cách nông thôn với thành thị; công nghệ số cũng cho chúng ta những cách tiếp cận mới, giải pháp mới để giải quyết hiệu quả những vấn đề tồn tại lâu dài của loài người, như ô nhiễm môi trường, khoảng cách giàu nghèo, đo lường tâm trạng xã hội, sự tham gia của người dân vào hoạch định chính sách, v.v...

Hiện nay mặc dù kinh tế số đã hiện diện khá rộng rãi nhưng trong hệ thống phân ngành kinh tế Việt Nam chưa có văn bản nào chính thức có thuật ngữ kinh tế số. Thành phần Kinh tế số ICT/VT là lĩnh vực có hệ thống mã ngành kinh tế tương đối đầy đủ thuộc phân ngành thông tin và truyền thông. Thành phần kinh tế số Internet/nền tảng hiện chỉ có mã ngành về hoạt động dịch vụ thông tin thuộc phân ngành thông tin và truyền thông, còn các hoạt động khác hầu như đều chưa được áp mã ngành. Thành phần Kinh tế số ngành/lĩnh vực hiện chỉ có mã ngành cho hoạt động thương mại điện tử (bán lẻ theo yêu cầu đặt hàng qua bưu điện hoặc internet), còn các hoạt động khác cũng đều chưa được áp mã ngành.

b) Xu hướng phát triển kinh tế số trên thế giới

Theo Báo cáo kinh tế số của Diễn đàn thương mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD), năm 2019 kinh tế số ICT/VT đóng góp khoảng 4,5% GDP toàn cầu, kinh tế số internet/nền tảng đóng góp 15,5% GDP toàn cầu. Con số tương ứng tại nước Mỹ là 6,9% và 21,6% GDP và tại Trung Quốc là 6% và 30% GDP. Một nghiên cứu của Microsoft cũng chỉ ra rằng kinh tế số đóng góp cho GDP khu vực Châu á-Thái bình dương năm 2017 khoảng 6%, năm 2019 khoảng 25% và năm 2021 là khoảng 60% GDP.

Trung Quốc là nước điển hình thành công về phát triển kinh tế số, với mức tăng trưởng luôn rất cao, và chủ yếu dựa trên các cấu phần kinh tế số Internet/nền tảng và kinh tế số ngành/lĩnh vực. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế, quy mô của nền kinh tế số Trung Quốc đã tăng từ 15% GDP năm 2008 lên 37% vào năm 2019, trong đó cấu phần kinh tế số ICT/VT chiếm phần nhỏ và ổn định ở mức khoảng 6-7% GDP hàng năm, trong khi cấu phần kinh tế số Internet/nền tảng tăng nhanh từ 7% GDP năm 2008 lên 30% GDP vào năm 2019.

Trong khu vực Asean, theo Báo cáo e-Conomy SEA 2020 chỉ tính riêng cấu phần kinh tế số Internet/nền tảng năm 2020 đã đạt khoảng 105 tỷ USD (tăng 5% so với 2019), và dự kiến đến 2025 sẽ đạt 309 tỷ USD. Indonesia là nước có doanh thu kinh tế số Internet/nền tảng cao nhất với 44 tỷ USD năm 2020, tiếp theo là Thái Lan với 18 tỷ USD và Việt Nam với 14 tỷ USD.

Để thấy được xu hướng phát triển kinh tế số toàn cầu, hãy xem xét lĩnh vực hoạt động của 20 công ty hàng đầu trên thế giới về vốn hóa thị trường theo Báo cáo kinh tế số của UNCTAD. Năm 2009 trong số các công ty hàng đầu thế giới có 35% là công ty kinh tế dầu khí và khai khoáng, trong khi chỉ có 15% là công ty kinh tế số, nhưng đến năm 2018, bức tranh đã thay đổi đáng kể: Số lượng công ty kinh tế số nằm trong top đầu thế giới tăng lên 40%, trong khi số công ty kinh tế dầu khí và khai khoáng nằm trong top đầu giảm xuống chỉ còn 10%. Sự thay đổi này thậm chí còn đáng chú ý hơn khi tính theo giá trị vốn hóa thị trường: Năm 2009, các công ty kinh tế dầu khí và khai khoáng chiếm 36% tổng vốn hóa thị trường của 20 công ty hàng đầu thế giới, trong khi nhóm kinh tế số chiếm 16%, nhưng đến năm 2018, nhóm kinh tế số đã tăng lên 56% tổng vốn hóa thị trường, ngược lại tỷ trọng của các công ty kinh tế dầu khí và khai khoáng giảm chỉ còn 7%.

Hoa Kỳ và Châu Á là 2 khu vực phát triển nhanh nhất về kinh tế số, với sự tập trung cao độ của các công ty công nghệ số hàng đầu thế giới ở 2 khu vực này.

Định hướng của các nước

Trước làn sóng mạnh mẽ của cách mạng chuyển đổi số, xu hướng phát triển nhanh chóng của kinh tế số, xã hội số, một số nước nhận ra cơ hội đã sớm ban hành các chiến lược, chương trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số của mình, điển hình như: Anh (Digital Economy strategy), Canada (Canada’s Digital Economy Strategy), Australia (National Digital Economy Strategy), Nigeria (National Digital Economy Policy and Strategy), Kenya (Digital Economy strategy), Đài Loan (kế hoạch phát triển kinh tế sáng tạo DIGI 2025), Singapore (Digital Economy Framework for Action), Thái Lan (Thailand Digital Economy and Society Development Plan). Cùng với việc khẩn trương ban hành và triển khai các chiến lược, chương trình phát triển kinh tế số, xã hội số, các nước cũng đã mạnh mẽ chuyển đổi thể chế, ban hành các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý phù hợp cho phát triển kinh tế số.

Một số quốc gia đã thay đổi tên gọi và cơ cấu tổ chức của Bộ quản lý chuyên ngành về Thông tin và Truyền thông thành Bộ mới với cụm từ “Digital” nổi bật trong tên Bộ để thực thi quản lý nhà nước về kinh tế số, chuyển đổi số. Điển hình như Thái Lan đổi tên Bộ Thông tin và Truyền thông thành Bộ Kinh tế và Xã hội số (Ministry of Digital Economy and Society), Áo đổi tên thành Bộ Chuyển đổi số và kinh tế số (Ministry for Digital and Economic Affairs), Nga đổi tên thành Bộ Truyền thông và phát triển công nghệ số (Ministry for Digital Development, Communications and Mass Media), v.v….

Cơ hội và thách thức trong phát triển kinh tế số Việt Nam

Kinh tế số của Việt Nam theo đánh giá của các tổ chức quốc tế đã có những bước phát triển nhanh, nhiều triển vọng so với khu vực và thế giới.

Theo Báo cáo e-Conomy SEA năm 2020, chỉ tính riêng cấu phần kinh tế số Internet/nền tảng, Việt Nam đã đạt 14 tỷ USD, đứng thứ 3 Asean, nhưng là nước có tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực này cao nhất với mức tăng 16%, nước có mức tăng cao tiếp theo là Indonesia với 11%, và Thái Lan 7% (xem hình). Báo cáo này cũng dự báo đến năm 2025 kinh tế số Internet/nền tảng Việt Nam sẽ đạt mức 52 tỷ USD.

Việc đo lường, thống kê số liệu đầy đủ về kinh tế số hiện là một thách thức lớn đối với hầu như tất cả các nước và cả Việt Nam. Tổng cục Thống kê đang rất nỗ lực phối hợp cùng các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu cụ thể để tổ chức điều tra, thống kê về lĩnh vực mới này. Mặc dù chưa có số liệu chính thức, đầy đủ về kinh tế số Việt Nam nhưng qua tổng hợp sơ bộ từ các báo cáo trong và ngoài nước, có thể ước tính kinh tế số Việt Nam năm 2020 đạt khoảng 163 tỷ USD, chiếm khoảng 8,2% GDP cả nước, trong đó cấu phần kinh tế số ICT/VT đạt 126 tỷ USD, chiếm 5,5% GDP, kinh tế số Internet/nền tảng đạt 14 tỷ USD, chiếm 1% GDP, và kinh tế số ngành/lĩnh vực đạt khoảng 23 tỷ USD, chiếm 1,7% GDP.

Kinh tế số Việt Nam thời gian qua phát triển tự phát nhưng tăng trưởng khá nhanh, là do hạ tầng viễn thông – CNTT khá tốt, phủ sóng rộng, mật độ người dùng cao; là do người Việt Nam ham mê công nghệ, thích sử dụng công nghệ vào loại cao nhất trong khu vực; là do dân số Việt Nam trẻ, được đào tạo tốt, học toán tốt và lao động chăm chỉ; là do tính cách người Việt Nam thích ứng nhanh với sự thay đổi. Đây là lợi thế Việt Nam khi chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.

Chúng ta cũng đang có những cơ hội rất lớn để phát triển kinh tế số. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam đang đi cùng thế giới trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cách mạng chuyển đổi số, và chúng ta có cơ hội lớn để bứt phá, vượt lên. Việt Nam là thị trường lớn, nhiều tiềm năng cho các mô hình kinh doanh mới, với dân số đông, đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng, có lực lượng lao động số lớn, có số người dùng Internet và điện thoại thông minh lớn và đang tăng nhanh sẽ tạo nên những thị trường hấp dẫn cho kinh tế số. Chúng ta cũng nằm tại trung tâm của Đông Nam Á, của Châu Á, khu vực được đánh giá sẽ là trung tâm phát triển công nghệ số và kinh tế số toàn cầu. Covid 19 là thảm hoạ toàn cầu nhưng cũng là cú huých trăm năm cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Việt Nam đã kiềm chế thành công Covid 19, và hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội này để bứt phá vươn lên về kinh tế số. Chúng ta cũng đang nhận được sự quan tâm và chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ cho chuyển đổi số và phát triển kinh tế số, thể hiện qua rất nhiều văn bản quan trọng được ban hành thời gian qua.

Tuy nhiên kinh tế số Việt Nam cũng đang đối mặt với những tồn tại, hạn chế và thách thức lớn, điển hình như:

- Hệ thống thể chế, pháp luật chưa tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế số. Quy định pháp luật cho các hoạt động kinh tế số chưa được hình thành đồng bộ, chậm được hoàn thiện, đặc biệt đối với mảng kinh tế số Internet/nền tảng; chưa có hành lang pháp lý cho thí điểm triển khai áp dụng các mô hình kinh doanh, dịch vụ mới. Hệ thống văn bản pháp luật ban hành nhiều nhưng thiếu đồng bộ, còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn, chưa phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Còn thiếu các quy định về giao dịch dữ liệu, bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư, cũng như tạo lập niềm tin trên không gian số; thiếu quy định về quyền cá nhân, đạo đức khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo; các quy định về danh tính số, định danh và xác thực điện tử cho người dân còn chậm được ban hành.

- Việc thực thi quản lý nhà nước, xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế số, xã hội số còn bất cập. Chúng ta có nhiều Bộ có chức năng nhiệm vụ liên quan đến kinh tế số, nhưng thiếu 1 cơ quan có trách nhiệm chủ trì, giúp Chính phủ thực thi quản lý nhà nước và điều phối, thúc đẩy phát triển lĩnh vực mới nhiều tiềm năng nhưng cũng lắm thách thức này. Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan trên thực tế đang thực thi quản lý nhà nước về kinh tế số cũng chưa có 1 đơn vị chuyên trách chịu trách nhiệm về lĩnh vực này. Chúng ta cũng thiếu các công cụ pháp lý và hệ thống công nghệ có khả năng giám sát, quản lý hiệu quả hoạt động các nền tảng số, nền tảng xuyên biên giới trên không gian mạng để chống độc quyền, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh, hỗ trợ các doanh nghiệp kinh tế số Việt. Kinh tế số đang làm thay đổi lợi thế so sánh của nước ta về nhân công giá rẻ, tạo ra nhiều nghề mới đòi hỏi kỹ năng mới, đồng thời làm giảm một số nghề theo lối “truyền thống” dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu việc làm. Tuy nhiên việc xây dựng, thực thi các cơ chế, chính sách để khuyến khích các lợi điểm của kinh tế số, và giảm thiểu các yếu tố tác động tiêu cực của lĩnh vực này còn lúng túng, bất cập.

- Kỹ năng số và nguồn nhân lực số chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế số, xã hội số. Nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu cho nghiên cứu, phát triển, ứng dụng các công nghệ số còn ít, chất lượng chưa cao. Các doanh nghiệp vẫn thiếu hụt lực lượng lao động công nghệ đủ kiến thức và kỹ năng để áp dụng công nghệ số vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Thị trường lao động đang đòi hỏi có sự thay đổi về chất lượng giáo dục, đào tạo để thích ứng với yêu cầu mới, trong khi đào tạo đại học cũng như đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. Kỹ năng số cơ bản của lực lượng lao động còn thấp, khả năng thích ứng với môi trường số chưa cao, trong khi chuyển đổi số đang làm giảm mạnh nhu cầu một số công việc tuyền thống và xuất hiện các yêu cầu mới đòi hỏi kỹ năng số cơ bản. Các cơ sở giáo dục vẫn chưa được triển khai mô hình giáo dục STEM/STEAM để trang bị cho học sinh hành trang số, kỹ năng số thiết yếu sẵn sàng cho tương lai. Phần lớn người dân vẫn chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng số cơ bản để có thể khai thác hiệu quả các kho tri thức số trên mạng và áp dụng công nghệ số vào hoạt động của mình. Nếu không có sự đột phá trong việc đào tạo, đào tạo lại kỹ năng số cho lực lượng lao động công nghệ cũng như đào tạo kỹ năng số cơ bản cho người dân để theo kịp tốc độ chuyển đổi số thì nước ta có thể phải đối mặt với khoảng trống làm gián đoạn chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

- Năng lực chuyển đổi số của doanh nghiệp còn yếu; lực lượng doanh nghiệp nền tảng số đông nhưng chưa mạnh, các nền tảng số Make in Vietnam còn non trẻ lại bị cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài. Trừ các doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực bắt buộc phải chuyển đổi số như tài chính ngân hàng, công nghệ thông tin và truyền thông, phần lớn các doanh nghiệp vẫn mới chỉ dừng lại ở mức độ quan tâm chứ chưa thực sự  triển khai chuyển đổi số. Năng lực nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ số của doanh nghiệp còn khá hạn chế. Chuyển đổi số giúp tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam diễn ra thuận lợi hơn, tuy nhiên mức độ hưởng lợi còn tuỳ thuộc vào khả năng chuyển đổi và nội lực số của doanh nghiệp. Nếu nội lực số không đạt, doanh nghiệp sẽ bị tác động nhiều hơn từ bất ổn kinh tế thế giới, dẫn đến sẽ phải chấp nhận vị trí thấp trong toàn bộ chuỗi giá trị toàn cầu. Các doanh nghiệp nền tảng số Việt Nam dù rất nỗ lực nhưng đang chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ các nền tảng số nước ngoài, nhất là các nền tảng số hoạt động xuyên biên giới, thậm chí còn đối mặt tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng ngay trên sân nhà. Do hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, hiện chúng ta thiếu các công cụ hữu hiệu để chống độc quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ các doanh nghiệp Việt trên không gian mạng. Chúng ta cũng thiếu các công cụ pháp lý để hạn chế các hình thức mua bán, sát nhập độc hại, có thể gây tác động xấu đến thị trường. Bên cạnh đó, thị trường cho kinh tế số cũng chưa phát triển đúng hướng. Việc tạo và dành thị trường số nội địa, nhất là thị trường số Chính phủ để doanh nghiệp Việt có cơ hội rèn luyện, lớn mạnh để đi ra toàn cầu chưa được triển khai hiệu quả.

- Và đặc biệt, Việt Nam chưa có chiến lược tổng thể của quốc gia về phát triển kinh tế số. Mặc dù Việt Nam đã có các nghị quyết, chương trình về chuyển đổi số, nhưng Việt Nam vẫn chưa có chiến lược hay chương trình, kế hoạch quốc gia nào về phát triển kinh tế số, xã hội số được ban hành để xác định cụ thể, rõ ràng quan điểm, tầm nhìn cũng như định hướng nhiệm vụ, giải pháp, phát triển, làm căn cứ để các bộ, ngành địa phương xây dựng kế hoạch, đề án để triển khai.

Các cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế số Việt Nam như trình bày ở trên đặt ra yêu cầu cấp thiết cần có chiến lược để định hướng, dẫn dắt của Chính phủ. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết 52-NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị, Chương trình chuyển đổi số quốc gia theo Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ đều xác định chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số là trọng tâm chiến lược của nước ta giai đoạn tới, và đặt ra các mục tiêu rất cao và cụ thể đến 2025 gồm: kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình và 100% số xã; phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số công nghệ thông tin (IDI) và chỉ số cạnh tranh (GCI), thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về chỉ số đổi mới sáng tạo (GII), và thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).

Các mục tiêu phát triển kinh tế số mà Đảng, Chính phủ đặt ra là rất thách thức, bởi theo kịch bản phát triển thông thường thì đến năm 2025 kinh tế số Việt Nam chỉ đạt mức 10,5% GDP.

Để đạt được mục tiêu kinh tế số chiếm 20% theo kịch bản phát triển nhanh, chúng ta cần duy trì mức tăng trưởng kinh tế số bình quân hàng năm khoảng 20%, gấp 3 lần tăng trưởng GDP dự kiến (6,5-7%/năm). Đây là một kịch bản không dễ dàng để thực hiện được, cùng với các mục tiêu rất cao về xã hội số, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, và sự đầu tư xứng tầm của tất cả các bộ, ngành, địa phương cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

3. Kết luận

Nền kinh tế số đang ngày càng khẳng định vai trò là một động lực cốt lõi của tăng trưởng toàn cầu. Không còn giới hạn trong một nhóm các quốc gia “công nghệ cao” ưu tú, kinh tế số đang được thúc đẩy trên khắp thế giới cả ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, và đang mang lại lợi nhuận khổng lồ cho nhiều doanh nghiệp, quốc gia. Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách các nước đang cố gắng nghiên cứu, tìm cách tốt nhất để tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng chuyển đổi số nhằm mục đích tăng tốc phát triển kinh tế số đất nước mình, đem lại lợi ích tốt nhất cho công dân của họ. Nhiều nước đang nỗ lực chuyển đổi các cấu trúc kinh tế truyền thống, đẩy mạnh kinh tế số ICT/VT, kinh tế số internet/nền tảng, thúc đẩy chuyển đổi số các ngành, lĩnh vực và hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển đổi số nhằm đưa đất nước thành cường quốc kỹ thuật số nhất quán, năng động, sáng tạo và tăng trưởng mạnh mẽ.

Quách Hồng Trang

Tài liệu tham khảo:

1. https://storage.googleapis.com/gweb-economy-sea.appspot.com/assets/pdf/e-Conomy_SEA_2020_Report.pdf (Báo cáo của Google Temasek và Bain&Company)

2. https://unctad.org/system/files/official-document/der2019_en.pdf