Xem xét những thay đổi trong cơ cấu tổ chức cũng như công nghệ thông tin, các giải pháp được sử dụng để giải quyết vấn đề đã nâng cao lượng thông tin xung quanh. Hơn nữa, các bản ghi hoàn toàn mới được hình thành trình bày thông tin theo một cách hoàn toàn khác biệt. Do lý thuyết như vậy, rất nhiều thông tin sẽ được tạo ra bằng cách sử dụng giấy, bây giờ được tạo ra dưới dạng điện tử, ví dụ, một email trong cơ sở dữ liệu.
Cụm từ “Chính phủ điện tử” liên kết đến các cơ quan Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (tức là Mạng diện rộng, Internet và điện toán di động). Họ có thể di chuyển liên kết với các doanh nghiệp khác nhau, các bộ phận của chính phủ và cuối cùng là công dân. Đổi lại, điều này sẽ làm tăng sự thành công của việc cung cấp dịch vụ và cải thiện cả giao tiếp và hợp tác cho tất cả các cơ quan Chính phủ. Những công nghệ như vậy có những lợi ích đáng kể, tức là cung cấp các dịch vụ của Chính phủ tốt hơn, phát triển giao tiếp với cả các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp và cuối cùng là trao quyền cho công dân thông qua thu thập thông tin hoặc quản lý chính phủ tốt hơn. Tóm lại, sẽ giảm tham nhũng, tăng tính minh bạch, thuận tiện hơn, tăng thu và giảm giá.
Các dự án tập trung vào Chính phủ điện tử bắt đầu vào giữa những năm 1990 trên toàn cầu, nơi mọi quốc gia đều điều hành dự án cụ thể của mình. Ví dụ, đã giới thiệu những thách thức đối với Chính phủ điện tử ở Jordon, nơi các nhà nghiên cứu nhận thấy một số trở ngại đối mặt với việc áp dụng Chính phủ điện tử. Đáng chú ý phải kể đến việc giáo dục phân chia kỹ thuật số, điện tử và cơ sở hạ tầng truyền thông kém. Ví dụ thứ hai, phác thảo tình trạng ở Pakistan, nơi đây là những thách thức lớn đối với Chính phủ điện tử: Cơ sở hạ tầng CNTT-TT, trình độ CNTT-TT thấp và lực lượng lao động chuyên nghiệp. Một số nghiên cứu này được tìm thấy trong giai đoạn khai thác trong khi những nghiên cứu khác đang trong giai đoạn thiết kế và tạo mẫu. Người ta tin rằng xã hội ngày nay nên chuyển sang điện tử. Sau khi nghiên cứu được thực hiện, tầm quan trọng của Chính phủ điện tử được nhận ra khi tất cả các doanh nghiệp, công chức, người dân, cơ quan hành chính chính phủ và các cơ quan đều nhận được thông tin chính xác thông qua một mạng lưới rộng khắp. Một loạt các hạn chế liên quan đến việc triển khai thành công các tiện ích công cộng điện tử được thảo luận. Trong khi xem xét các nước đang phát triển, các dự án Chính phủ điện tử không thành công khi có một khoảng cách lớn giữa các nước phát triển và đang phát triển. Sự thất bại của các dự án này là do thiếu nguồn lực thích hợp vì việc ứng dụng CNTT-TT chậm hơn so với dự kiến. Cơ sở hạ tầng CNTT-TT kém và nguồn nhân lực Công nghệ Thông tin (CNTT) thiếu hụt để phát triển CNTT-TT. Tất cả các điểm sau đây ảnh hưởng đến việc áp dụng Chính phủ điện tử ở các nước đang phát triển: viện trợ quản lý, số lượng tổ chức, thân thiện với người dùng, khả năng tương thích, nhu cầu cạnh tranh, mức độ phù hợp chiến lược và cơ sở hạ tầng hỗ trợ CNTT. Xét đến thực tế là các dự án Chính phủ điện tử hoạt động lâu dài, cần phải có lộ trình khung triển khai tích hợp, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Khi khởi động hệ thống Chính phủ điện tử, việc tất cả người dùng được công nhận là một bước cần thiết. Bốn điểm chính liên quan đến cộng đồng được tìm ra như sau: Cán bộ, Công dân, Chính phủ và Doanh nghiệp. Những điểm này được sử dụng trong quá trình xây dựng hệ thống Chính phủ điện tử. Hình 1 trình bày một nhóm rõ ràng các ứng dụng Chính phủ điện tử, sau đó là một số chi tiết cho từng ứng dụng Chính phủ điện tử
1.1. Chính phủ điện tử giữa Chính phủ với Công chức (G-to-O e-Gov)
Loại hình này cung cấp hỗ trợ cho tất cả những người sau: các tổ chức công, các quan chức nội bộ của Chính phủ và cuối cùng là các quy trình và phương pháp hợp tác của các tổ chức thứ cấp.
1.2. Chính phủ điện tử giữa Chính phủ với công dân (G-to-C e-Gov)
Phần G2C bao gồm các mối quan hệ giữa các Chính phủ và công dân của họ diễn ra dưới dạng điện tử. Mục tiêu cuối cùng đằng sau điều này là công dân kết nối với Chính phủ của họ từ sự thoải mái trong ngôi nhà của họ. Việc áp dụng G2C khiến người dân tò mò và nhận được câu trả lời liên quan đến các cơ quan Chính phủ. Ngoài ra, công dân có thể sử dụng các dịch vụ như Bỏ phiếu điện tử và Hỗ trợ điện tử.
1.3. Chính phủ điện tử từ Chính phủ đến Doanh nghiệp (G-to-B e-Gov)
Nhờ được kết nối trên một mạng lưới rộng khắp, hầu hết các doanh nghiệp đều quen thuộc với các tiện ích do Chính phủ cung cấp. Các con đường an toàn được đảm bảo xuyên suốt để mỗi doanh nghiệp sử dụng cơ sở thông qua danh tính của một pháp nhân. Ví dụ, khai báo hải quan trực tuyến hàng hóa hoặc thông quan hàng hóa trực tuyến.
1.4. Chính phủ điện tử giữa công dân với công dân (C-to-C e-Gov)
Ở đây, Chính phủ đàm phán thông tin tùy theo tình hình. Ví dụ: Chính phủ giải quyết mọi vấn đề liên quan đến các cuộc tranh luận của công dân hoặc cung cấp việc làm ngắn hạn cho những công dân có hoàn cảnh khó khăn, khó xin việc làm. Đổi lại, những công dân như vậy có thể làm việc và kiếm sống. Kết luận, Chính phủ hỗ trợ công dân của mình thông qua nhân lực và thông tin.
1.5. Chính phủ điện tử Doanh nghiệp với Doanh nghiệp (B-to-B e-Gov)
Phần này giống như ứng dụng Chính phủ điện tử C-to-C. Loại cụ thể này là nơi Chính phủ có một phần hòa giải trong đàm phán thông tin. Ví dụ: doanh nghiệp có thể đấu thầu các hợp đồng chứa thông tin nhạy cảm, được Chính phủ cho phép. Những doanh nghiệp như vậy sẽ có thể hình thành những thứ như tàu chiến, xe tăng và máy bay chiến đấu. Tất cả những thứ này đại diện cho vũ khí của một quốc gia.
1.6. Chính phủ điện tử giữa công dân với Chính phủ (C-to-G e-Gov)
Việc hình thành các cộng đồng hoàn toàn dựa vào điện tử xảy ra do nhu cầu của người dân. Những nhu cầu này được gọi là tổng cầu được định hướng. Ví dụ, yêu cầu hỗ trợ là điều mà công dân có thể làm, cũng như đề xuất những điều cụ thể cho công dân.
1.7. Chính phủ điện tử giữa Doanh nghiệp với Chính phủ (B-to-G e-Gov)
Điều này sử dụng một ứng dụng tương tự cho Chính phủ điện tử C-to-G. Tuy nhiên, ở đây các cộng đồng dựa trên thiết bị điện tử xuất phát từ nhu cầu của các doanh nghiệp. Những nhu cầu này được gọi là tổng cầu được định hướng. Ví dụ, các doanh nghiệp có thể yêu cầu sự bảo trợ của chính phủ hoặc các chương trình từ các doanh nghiệp khác nhau.
2. Phương pháp luận
Kiến trúc hệ thống tổng thể, như trong Hình 2, bao gồm các phương tiện giao tiếp khác nhau của khách hàng như điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính xách tay, Internet và tuyến đường. Nói cách khác, điều đó có nghĩa là người dùng cuối (end user) có thể đưa ra phản hồi của mình thông qua máy tính hoặc thiết bị di động. Trong trường hợp di động, bộ định tuyến không dây phải được kết nối với mạng để cung cấp kết nối với thiết bị di động nhằm tăng thêm tính linh hoạt cho người dùng liên quan đến bảng câu hỏi.
Hình 2. Kiến trúc hệ thống đề xuất cho Chính phủ điện tử.
Nhà nghiên cứu đã sử dụng bảng câu hỏi làm dữ liệu chính để phân tích những thách thức trong Chính phủ điện tử và mức độ áp dụng của nó trong các cơ quan Chính phủ.
Một bảng câu hỏi bao gồm các loại câu hỏi khác nhau liên quan đến một lĩnh vực cụ thể nhằm bao quát tối đa thông tin từ các cá nhân. Bất kỳ ai cũng có thể hoàn thành bảng câu hỏi qua email, điện thoại hoặc phỏng vấn trực tiếp. Một loại bảng câu hỏi đặc biệt phụ thuộc vào web, đây là một phương pháp phát triển nhanh và đầy hứa hẹn. Phương pháp này diễn ra khi một email hoặc một tin nhắn được nhận, chẳng hạn như qua mạng xã hội yêu cầu nhấp vào địa chỉ URL sẽ đưa người đó đến trang web để điền vào biểu mẫu bảng câu hỏi. Đối với mẫu, một số lượng lớn người dùng đến từ một nhóm quan tâm được xác định trước đã được chọn. Người trả lời có thể cung cấp dữ liệu nhân khẩu học thông qua thang điểm đánh giá Likert 5 điểm.
Khi phát hiện những người tham gia nghiên cứu tiềm năng, một tiêu chí cụ thể sẽ được sử dụng. Theo kết quả nghiên cứu, nam giới chiếm 46,7% trong mẫu nghiên cứu trong khi nữ giới chiếm 53,3%. Dữ liệu này được thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1. Yếu tố giới tính
|
Giới tính
|
Tần suất
|
Phần trăm (%)
|
Nam giới
|
84
|
46.7
|
Nữ giới
|
96
|
53.3
|
Tổng cộng
|
180
|
100.0
|
Người ta lưu ý rằng tất cả những người được hỏi đều nêu rõ trình độ đại học trong đó 5,6% trong số họ cho rằng họ là người có bằng cấp, 94,5% có bằng cấp sau đại học phân bổ giữa bằng thạc sĩ và tiến sĩ như trong Bảng 2.
Bảng 2. Yếu tố giáo dục (trình độ học vấn)
|
Giáo dục
|
Tần suất
|
Phần trăm (%)
|
Bằng cử nhân
|
10
|
5.6
|
Bằng thạc sĩ
|
88
|
48.9
|
Bằng tiến sĩ
|
82
|
45.6
|
Tổng cộng
|
180
|
100.0
|
Về độ tuổi, 42,8% người được hỏi trong độ tuổi từ 30 đến 39. 38% trong số họ từ 40 đến 49 tuổi. Ngoài ra, 10% trong độ tuổi từ 20 đến 29. Cuối cùng, 8,3% trong số họ có độ tuổi bằng hoặc lớn hơn 50 tuổi. Dữ liệu này được thể hiện trong Bảng 3
Bảng 3. Yếu tố tuổi tác
|
Độ tuổi
|
Tần suất
|
Phần trăm (%)
|
20-29
|
18
|
10.0
|
30-39
|
77
|
42.8
|
40-49
|
70
|
38.9
|
≥ 50
|
15
|
8.3
|
Tổng cộng
|
180
|
100.0
|
3. Phân tích nghiên cứu tình huống
Công việc này nhằm xác định những trở ngại thông qua việc triển khai Chính phủ điện tử. Dữ liệu được phân tích định lượng và các Bảng (4,5,6,7) mô tả niềm tin của 180 người tham gia dựa trên các câu hỏi liên quan đến Chính phủ điện tử
Bảng 4. Tác động chính trị
|
Mục
|
Rất
không quan trọng
|
Phần nào đó
không quan trọng
|
Trung lập
|
Khá quan trọng
|
Rất quan trọng
|
Tần suất
|
Phần trăm (%)
|
Tần suất
|
Phần trăm (%)
|
Tần suất
|
Phần trăm (%)
|
Tần suất
|
Phần trăm (%)
|
Tần suất
|
Phần trăm (%)
|
Thiếu Luật về Chính phủ điện tử
|
6
|
3.3
|
13
|
7.2
|
0
|
0
|
73
|
40.6
|
88
|
48.9
|
Thiếu công thức vấn đề an ninh
|
8
|
4.4
|
9
|
5.0
|
0
|
0
|
82
|
45.6
|
81
|
45.0
|
Sự văng mặt của sự phối hợp giữa trạng thái thể chế
|
9
|
5.0
|
4
|
2.2
|
1
|
0.6
|
74
|
41.1
|
92
|
51.1
|
Về tác động chính trị, từ quan điểm của những người được hỏi, có rất nhiều vấn đề chính trị cần được xem xét. Do đó, cả cơ sở vật chất và thủ tục đều yêu cầu phản ánh cụ thể. Những người được hỏi bày tỏ ý kiến của họ như sau:
A) 89% cho rằng thiếu luật về Chính phủ điện tử.
B) 90% tuyên bố thiếu các vấn đề bảo mật.
C) 92% tuyên bố không có sự phối hợp giữa các hướng dẫn của nhà nước.
Theo kết quả trên, rõ ràng tác động chính trị có ảnh hưởng đáng kể đến việc áp dụng Chính phủ điện tử, trong đó nghiên cứu của chúng tôi (Iraq) có nhiều vấn đề chính trị thách thức việc áp dụng Chính phủ điện tử. Ngoài ra, kết quả chỉ ra rằng có mối tương quan đáng kể giữa các tác động chính trị với các giá trị nằm trong khoảng từ 0,427 đến 0,532 và điều này cho thấy rằng các tác động chính trị có mối quan hệ lẫn nhau và phụ thuộc vào nhau như được thể hiện trong Bảng 5.
Bảng 5. Ma trận tương quan đối với các tác động chính trị
|
Tương quan
|
Thiếu Luật về Chính phủ quyền
|
Thiếu công thức hóa các vấn đề bảo mật
|
Không có thỏa thuận giữa các cơ quan nhà nước
|
Thiếu Luật về Chính phủ quyền
|
Hệ số tương quan Pearson
|
1
|
.497**
|
.429**
|
Sig. (2-tailed)
|
|
.000
|
.000
|
Thiếu công thức hóa các vấn đề bảo mật
|
Hệ số tương quan Pearson
|
.497**
|
1
|
.532**
|
Sig. (2-tailed)
|
.000
|
|
.000
|
Không có thỏa thuận
giữa các cơ quan nhà nước
|
Hệ số tương quan Pearson
|
.429**
|
.532**
|
1
|
Sig. (2-tailed)
|
.000
|
.000
|
|
**. Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2 bên)
|
Để có thể áp dụng Chính phủ điện tử, người ra quyết định cần cải thiện sự hợp tác giữa các cơ quan Chính phủ khác nhau để thực hiện việc chuyển hồ sơ qua internet. Điều này sẽ cải thiện Chính phủ điện tử được áp dụng.
(Còn nữa)
Bùi Trung Hiếu
Nguồn tham khảo:
https://www.researchgate.net/publication/349615071_Challenges_in_E-_governments_A_case_study-based_on_Iraq