Đang xử lý.....

Nhìn nhận về thúc đẩy Chính phủ điện tử từ Covid 19  

Tính đến tháng 3 năm 2020, đại dịch Covid 19 chính thức trở thành “đại dịch toàn cầu”.
Thứ Sáu, 02/10/2020 997
|

Chính phủ các quốc gia trên thế giới tiến hành các phản ứng đáp ứng nhằm bảo vệ sức khỏe người dân cũng như lợi ích chung cho công động trên toàn cầu, bao gồm: hạn chế đi lại, phong tỏa kiểm dịch, ban bố trạng thái khởi động cấp, sử dụng giới hạn lệnh, tiến hành cách ly xã hội, hủy bỏ các sự kiện đông người, đóng cửa trường học và các dịch vụ, kinh doanh ít quan trọng, khuyến khích dân tự nâng cao ý thức phòng bệnh, trang khẩu, hạn chế ra ngoài khi không cần thiết, đồng thời chuyển đổi mô hình hoạt động kinh doanh, học tập, làm việc từ truyền thống sang trực tuyến. Một số ví dụ tiêu biểu có thể được ví như: phong tỏa để kiểm tra toàn bộ dịch vụ tại Ý và tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc, chính phủ Việt nam phong tỏa các điểm tập trung lớn bùng phát dịch như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; phương pháp sàng lọc tại sân bay và nhà ga; hạn chế hoặc hủy bỏ các hoạt động du lịch tới các khu vực, vùng, quốc gia có nguy cơ nhiễm bệnh ở mức cao. Ngoài ra, các trường học cũng phải đóng cửa trên nhiều nước trên thế giới hoặc ở một số vùng ở hơn 160 quốc gia, ảnh hưởng đến 87% học sinh, sinh viên trên toàn thế giới. Các báo cáo tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2020.

Đó là những bước đầu của đại dịch. Tại thời điểm này, 6 tháng đã diễn ra và cần có một cái nhìn nhận rõ ràng về đại dịch covid 19, ngoại trừ những ảnh hưởng tiêu cực đã diễn ra, cần nhìn nhận những cái tốt đã tạo ra hay nhưng sự thúc đẩy quan trọng và đặc biệt khi chính phủ số, chính phủ điện tử là một tiêu chí cần thiết để phát triển quốc gia thì covid 19 trở thành một cơ hội để thúc đẩy và thay đổi.

Bài viết là một tổng kết khái quát nhất cho sự phát triển chính phủ số, chính phủ điện tử.

Chính phủ chia sẻ thông tin

Điều quan trọng là các chính phủ phải cung cấp thông tin chính xác, hữu ích và cập nhật cho người dân, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng. Trong đại dịch COVID-19, các chính phủ bắt đầu cung cấp thông tin trên cổng thông tin quốc gia, ứng dụng di động hoặc thông qua các nền tảng truyền thông xã hội. Đánh giá các cổng thông tin quốc gia của 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc cho thấy rằng vào ngày 25 tháng 3 năm 2020, 57% (110 quốc gia) đã cung cấp một số loại thông tin về COVID-19, trong khi khoảng 43% (83 quốc gia) đã không cung cấp bất kỳ thông tin nào; nhưng một phân tích sâu hơn cho thấy rằng vào ngày 8 tháng 4 năm 2020, khoảng 86 phần trăm (167 quốc gia) đã đưa thông tin và hướng dẫn về Covid 19 vào cổng thông tin của họ.

Dạng thông tin cơ bản nhất được tìm thấy trên một số cổng thông tin quốc gia là một số phương tiện truyền thông đưa tin thông báo cho mọi người về sự bùng phát, hạn chế đi lại, hướng dẫn thực hành về bảo vệ và phản ứng của chính phủ. Một cách nâng cao hơn một chút dường như là có một cổng hoặc phần dành riêng về sự bùng phát — thường là với một tên miền tùy chỉnh. Các chính phủ, với tư cách là cơ quan quản lý dữ liệu liên quan đầu tiên của COVID-19, cũng đã bắt đầu công bố số liệu thống kê về đợt bùng phát. Chúng bao gồm tổng số trường hợp trong một quốc gia, tổng số người chết, cũng như báo cáo các trường hợp theo khu vực pháp lý. Thông tin đáng tin cậy từ các chính phủ giúp mọi người đưa ra quyết định sáng suốt về thói quen hàng ngày của họ, xây dựng lòng tin của công chúng cũng như cho phép các cơ quan công quyền hành động quyết đoán để làm phẳng đường cong.

Cuộc khủng hoảng COVID-19 cũng đã mang lại nhu cầu mới về các dịch vụ kỹ thuật số của chính phủ và nhu cầu nhiều hơn về các dịch vụ hiện có. Các nhà phát triển ở các chính phủ đã được huy động và tham gia vào việc thiết kế các ứng dụng và dịch vụ mới để giúp đỡ trong cuộc chiến chống lại COVID-19. Một số dịch vụ mới này bao gồm cung cấp thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu khác cho những người cần nhất bằng cách tối ưu hóa toàn bộ chuỗi cung ứng thông qua các dịch vụ kỹ thuật số của chính phủ. Một số quốc gia thành viên đã ghi nhận sự gia tăng trong việc sử dụng các dịch vụ trực tuyến như ID kỹ thuật số và chữ ký điện tử, do lượng đơn xin thất nghiệp và các trợ cấp xã hội khác tăng đột biến.

Trong đại dịch COVID-19, cũng đã có một làn sóng tin tức giả và trò lừa bịp lan truyền. Những người sử dụng có mục đích xấu hoặc kiến ​​thức không đầy đủ góp phần vào việc lan truyền tin tức giả và gây thêm hoảng loạn trong xã hội. Hàng nghìn trang web lừa đảo và phần mềm độc hại COVID-19 đã xuất hiện hàng ngày, chẳng hạn như bán mặt nạ phẫu thuật giả, bộ dụng cụ tự kiểm tra giả, v.v. Tổ chức Y tế Thế giới đã phân loại đây là vấn đề thứ yếu của bệnh dịch “có quá nhiều thông tin - một số chính xác và một số không - khiến mọi người khó tìm được các nguồn đáng tin cậy và hướng dẫn đáng tin cậy khi họ cần”. Để đối phó, một số chính phủ đã triển khai các đơn vị ứng phó hoặc chiến dịch để phối hợp đấu tranh chống lại thông tin sai lệch trên mạng về COVID-19.

Hình 1: Trang chủ của bộ y tế Việt Nam

Tại Việt Nam, các cổng thông tin được triển khai mạnh mẽ, tất cả các bộ ban ngành có ảnh hưởng từ dịch covid 19 đều đăng các thông tin chia sẻ thông tin liên quan. Bộ y tế với một giao diện dễ nhìn cho người tìm kiếm dễ nắm bắt thông tin từ chính phủ cũng dễ dàng nắm bắt thông tin về các ca bệnh. Sau khi kiểm tra lượt truy cập, trang web của bộ y tế tăng 100.5%, một con số ấn tượng về lượt truy cập. Hay về các bản tin của đài truyền hình quốc gia Việt Nam, các tin tức covid trên tài khoản Trung tâm Tin tức VTV24 có lượt truy cập tăng 230% từ thời điểm bùng phát dịch tại Hà Nội, các thông tin chia sẻ được đổi mới nội dung và hình thức truyền tải cũng là một yếu tố quan trọng được chú ý trong chia sẻ thông tin của nhà đài. Các thông tin về việc bịa đặt, câu tương tác qua các câu chuyện bịa đặt cũng được kịp thời chia sẻ để người dân có một cái nhìn chính xác về dịch bệnh.

Hình 2: Việt Nam triển khai các nền tảng họp trực tuyến thay thế cho Zoom hay Microsoft Teams

Việc họp và giao ban trực tuyến đã trở thành một thói quen của các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp. Điển hình là họp giao ban thường trực chính phủ về covid 19 trong giao đoạn dịch bệnh hoành hành cả trong đợt đầu tại Hà Nội và Hồ Chí Minh đến đợt bùng phát thứ 2 tại Đà Nẵng đều được thực hiện trực tuyến hàng ngày và công bố báo chí ngay tức khắc. Điều đó đã xây dựng được lòng tin của người dân. Điều đó được thể hiện một cách rõ ràng về việc tuân thủ dãn cách xã hội, người dân thể hiện một sự tin tưởng cao với chính phủ không như ở một số nước khác, người dân biểu tình để đòi lại quyền tự do của mình.

Chính phủ thu hút mọi người dân

Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự, các doanh nghiệp, doanh nhân xã hội và công chúng nói chung trong việc quản lý đại dịch COVID-19 và hậu quả của nó có thể chứng tỏ là có hiệu quả cao đối với các nhà hoạch định chính sách và quyết định. Các sáng kiến ​​tham gia trực tuyến do các chính phủ dẫn đầu có thể giúp mọi người đối phó với khủng hoảng cũng như cải thiện hoạt động của chính phủ. Trong tình huống khủng hoảng, việc tiếp cận với các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội, đáp ứng nhu cầu của họ và đảm bảo ổn định xã hội trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tham gia với xã hội dân sự cho phép các chính phủ giải quyết các thách thức kinh tế xã hội theo cách hiệu quả hơn mà không bỏ lại ai phía sau.

“Hackathons”- cuộc thi phát triển phần mềm do chính phủ tổ chức là một cách thu hút mọi người tìm kiếm các giải pháp sáng tạo cho những thách thức về kinh tế, xã hội và công nghệ của đại dịch COVID-19. Các quan chức nhà nước, cùng với các nhà phát triển phần mềm, xã hội dân sự và các doanh nhân xã hội có thể cùng nhau tìm kiếm các giải pháp mới, ví dụ như tình trạng thiếu thuốc và thiết bị y tế bảo vệ, tình trạng thiếu nhân viên y tế (ví dụ như trong bệnh viện hoặc ngân hàng thực phẩm), vấn đề tích trữ lương thực, hoặc sức khỏe tâm thần của con người suy giảm do sự cô lập xã hội. Trong một sáng kiến, các chính quyền địa phương ở Trung Quốc đã triển khai dịch vụ Mã QR ytế cho thành phố thông qua nền tảng dịch vụ của chính phủ, dựa trên dữ liệu sức khỏe do người dân hoặc người lao động trở về khai báo. Mã có thể được áp dụng bằng cách đăng nhập qua nhiều nền tảng di động công cộng. Chính quyền địa phương xác minh thông tin khai báo cá nhân với dữ liệu y tế, hàng không dân dụng, đường sắt và các dữ liệu liên quan khác, đồng thời cấp giấy chứng nhận điện tử về thông tin sức khỏe cá nhân. Tại Hàn Quốc, ngoài việc phỏng vấn, các quan chức sử dụng dữ liệu vị trí từ điện thoại di động, hồ sơ giao dịch thẻ tín dụng và cảnh quay CCTV để theo dõi và kiểm tra những người có thể gần đây đã tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh. Bản đồ chi tiết cũng được công bố cho thấy sự di chuyển của những người bị nhiễm bệnh, khuyến khích những người khác nghĩ rằng họ có thể đã tiếp xúc với một người bị nhiễm bệnh đi xét nghiệm. Các quan chức sử dụng dữ liệu vị trí từ điện thoại di động, hồ sơ giao dịch thẻ tín dụng và cảnh quay CCTV để theo dõi và kiểm tra những người gần đây có thể đã tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh. Bản đồ chi tiết cũng được công bố cho thấy sự di chuyển của những người bị nhiễm bệnh, khuyến khích những người khác nghĩ rằng họ có thể đã tiếp xúc với một người bị nhiễm bệnh đi xét nghiệm. Các quan chức sử dụng dữ liệu vị trí từ điện thoại di động, hồ sơ giao dịch thẻ tín dụng và cảnh quay CCTV để theo dõi và kiểm tra những người gần đây có thể đã tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh. Bản đồ chi tiết cũng được công bố cho thấy sự di chuyển của những người bị nhiễm bệnh, khuyến khích những người khác nghĩ rằng họ có thể đã tiếp xúc với một người bị nhiễm bệnh đi xét nghiệm.

Nhiều chính phủ đã sử dụng nhiều hơn các nền tảng truyền thông xã hội để kết nối với mọi người. Một số cũng đã hợp tác với những người có ảnh hưởng để phổ biến thông tin chính xác về đợt bùng phát COVID-19 và chống lại những thông tin sai lệch có hại. Người ta đặc biệt tập trung vào việc tương tác với thanh thiếu niên và trẻ em, những người rất dễ bị tin tức giả mạo và có thể phải chịu gánh nặng mà cuộc khủng hoảng COVID-19 gây ra đối với sức khỏe xã hội, kinh tế và tinh thần của các bậc cha mẹ. Ví dụ, Thủ tướng Na Uy Erna Solberg đã tổ chức một cuộc họp báo trực tuyến với một phiên hỏi đáp dành riêng cho trẻ em để giúp giảm bớt nỗi sợ hãi của chúng. Trong COVID-19, dữ liệu mở và sự tham gia điện tử có thể giúp xây dựng lòng tin của công chúng vào các biện pháp ứng phó với khủng hoảng của chính phủ và hỗ trợ các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội.

Tại Việt Nam, bộ Thông tin và truyền thông mà chủ trì là cục Tin học hóa đã tổ chức tìm kiếm đơn vị để phát triển ứng dụng điện thoại truy vết người nhiễm covid 19, sản phẩm Bluezone đã được hoàn thiện bởi BKAV và phát triển trên hạ tầng của Viettel để tiếp tục phát triển.

Hình 3: Hoạt động của ứng dụng Bluezone

Thiếp lập quan hệ đối tác nhiều bên liên quan.

Các chính phủ thường thiếu khả năng tài chính và nhân lực để phát triển nhanh chóng và hiệu quả các công cụ kỹ thuật số có thể hỗ trợ người dân trong tình huống khủng hoảng. Do đó, xây dựng quan hệ đối tác với các công ty công nghệ tư nhân, các doanh nhân xã hội hoặc các tổ chức quốc gia và quốc tế khác, có thể là một cách hiệu quả để các chính phủ tận dụng các công nghệ hiện có để đáp ứng nhu cầu của người dân và giảm bớt tác động của cuộc khủng hoảng đối với cuộc sống của họ.

Các cơ quan công quyền đã bắt đầu hợp tác với nhiều bên liên quan trong thời gian bùng phát COVID-19. Ví dụ: Chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra lời kêu gọi hành động đối với các bên liên quan chính trong ngành và các chuyên gia trí tuệ nhân tạo để phát triển các kỹ thuật khai thác dữ liệu và văn bản mới có thể giúp cộng đồng khoa học trả lời các câu hỏi ưu tiên cao liên quan đến COVID-19. Nền tảng này có thể giúp tăng tốc độ nghiên cứu và hỗ trợ với hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh nhân nhiễm bệnh trên toàn cầu, bao gồm cả ở các nước đang phát triển có nguồn lực hạn chế hơn.

Quan hệ đối tác giữa các chính phủ, khu vực tư nhân và các tổ chức quốc tế cũng có thể là yếu tố quan trọng để duy trì các dịch vụ cho thông tin liên lạc quan trọng và đảm bảo kết nối lớn hơn. Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) đã đưa ra một nền tảng để hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách quốc gia, các cơ quan quản lý và các bên liên quan trong ngành nhằm đảm bảo rằng các mạng được duy trì linh hoạt và các dịch vụ viễn thông luôn sẵn sàng cho tất cả mọi người nhằm ngăn chặn sự gia tăng thêm của các khoảng cách số trong cuộc khủng hoảng COVID-19. Ở một số quốc gia, các nhà cung cấp Internet đã cam kết duy trì năng lực và dịch vụ mạng cho các chức năng quan trọng của chính phủ, đặc biệt là bệnh viện và các cuộc gọi khẩn cấp, đồng thời cải thiện việc phổ biến thông tin tới công chúng, bao gồm cả cảnh báo qua SMS. Theo cách tương tự,

Đại dịch COVID-19 cũng đã làm căng thẳng chuỗi cung ứng vật tư y tế. Nhu cầu về thiết bị y tế tăng theo cấp số nhân, tạo ra tình trạng thiếu hụt, thường khiến nhân viên y tế gặp rủi ro lớn hơn. Để giải quyết vấn đề này, nhiều công ty tư nhân đã hợp tác với các cơ quan chính phủ để phát triển các ứng dụng y tế giúp mọi người, nhân viên bệnh viện và các bác sĩ theo dõi, phân tích và tìm nguồn cung cấp thiết bị y tế quan trọng như máy thở, khẩu trang, găng tay và đồ bảo hộ trong thời gian thực.

Các nền tảng kỹ thuật số đã được triển khai để giúp theo dõi tiếp xúc dựa vào cộng đồng của những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính. Singapore là một trong những quốc gia đầu tiên triển khai công nghệ theo dõi liên lạc với ứng dụng TraceTogether của mình trong cuộc khủng hoảng sức khỏe hiện nay. Các ứng dụng theo dõi số liên lạc sử dụng tính năng bluetooth của điện thoại di động của một người để lưu ẩn danh dữ liệu của những người dùng khác mà một người đã qua đường. Khi cuộc gặp gỡ của một người bị nhiễm bệnh, người dùng sẽ nhận được thông báo cho phép tự kiểm tra hoặc tự cô lập ngay lập tức. Các ứng dụng sáng tạo như những ứng dụng này đã được phát triển bởi nhiều công ty tư nhân khác nhau và hỗ trợ các nỗ lực của chính phủ để ngăn chặn số lượng nhiễm trùng. Cũng có một số lo ngại rằng một số cửa hàng ứng dụng đã hạn chế việc phân phối rộng rãi các ứng dụng này trong một số trường hợp do mức sử dụng pin cao hoặc đôi khi do lo ngại về quyền riêng tư hoặc bảo vệ dữ liệu. Quan hệ đối tác công tư hiệu quả và kịp thời đặc biệt quan trọng trong thời gian này vì các ứng dụng chỉ cung cấp kết quả với cơ sở người dùng lớn.

Quan hệ đối tác với khu vực tư nhân trong việc hỗ trợ các chính phủ đã cho thấy những tác động tích cực trong cuộc chiến chống lại sự bùng phát. Tuy nhiên, cần phải giải quyết các mối quan tâm tiềm ẩn về vi phạm quyền riêng tư và quyền con người mà việc thực hiện chúng có thể gặp phải. Ưu tiên ẩn danh trong khi tổng hợp thông tin cá nhân, việc sử dụng vị trí địa lý, cũng như quyền truy cập vào hồ sơ y tế là rất quan trọng để bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu cá nhân. Các nhà hoạch định chính sách cần xem xét nguyên tắc giảm thiểu và hạn chế việc thu thập, lưu giữ và chia sẻ dữ liệu cá nhân đến những gì thực sự cần thiết và có thể liên kết hợp lý với mục đích vượt qua khủng hoảng sức khỏe để ngăn chặn việc giám sát lạm dụng và vi phạm quyền riêng tư dữ liệu.

Vào tháng 8 năm nay, tập đoàn tư nhân hàng đầu Việt Nam Vingroup đã bàn giao cho bộ Y tế 300 máy thở can thiệp, phần nào giải quyết các vấn đề thiếu vật tư y tế của Việt Nam. Một sự chia sẻ vô cùng tức thời và cần thiết từ khối tư nhân. Cũng không thể quên được sự chia sẻ từ vật chất và tiền của các doanh nghiệp, cá nhân trên toàn quốc san sẻ gánh nặng kháng chiến chống dịch của đất nước. Hay ở giao đoạn tiếp theo, chính phủ cùng bộ y tế khánh thành 1000 cơ sở khám chữa bệnh y tế từ xa Telehealth. Đây là một yếu tố quan trọng giãn gánh nặng của các bệnh viện tuyến đầu, giảm thiểu rủi ro lây lan bệnh dịch trong các khu bệnh viện nơi sự chống dịch bệnh có những cá nhân yếu nhất cần hỗ trợ nhất.

Hình 4: Các đầu cầu khám bệnh trưc tuyến

Đẩy nhanh việc triển khai các công nghệ kỹ thuật số sáng tạo

Vì cuộc khủng hoảng đã khiến các dịch vụ công rơi vào tình trạng căng thẳng, các chính phủ được khuyến khích triển khai các công nghệ kỹ thuật số hiệu quả để ngăn chặn sự bùng phát. Hầu hết các giải pháp sáng tạo nhanh chóng đưa ra thị trường đều xuất phát từ khu vực tư nhân. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng đã đặt ra nhu cầu về sự lãnh đạo của chính phủ trong việc phát triển và áp dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI) và robot để đảm bảo cung cấp hiệu quả các dịch vụ công.

Công nghệ hỗ trợ bởi AI đã được chứng minh là có lợi cho việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi các đường dây khẩn cấp vượt quá khả năng. Trong thời gian bùng phát dịch bệnh, nhiều người đã chuyển sang tự kiểm tra các triệu chứng và tìm đến các “bác sĩ ảo” thông qua dịch vụ y tế từ xa để được tư vấn y tế. Chatbots đa ngôn ngữ đã đưa ra các giải pháp trong việc vượt qua rào cản ngôn ngữ, tiếp cận thông tin và giao tiếp với các bác sĩ y tế. Công nghệ in 3D đã được áp dụng để sản xuất van thay thế cho các thiết bị vệ sinh lại và tấm chắn bảo vệ mặt y tế để giải quyết tình trạng thiếu hụt. Robot và máy bay không người lái đã hoạt động hiệu quả trong việc cung cấp an ninh và vệ sinh do đó giảm nguy cơ rủi ro của nhân viên. Robot tuần tra sử dụng nhận dạng khuôn mặt và camera nhiệt được triển khai tại các sân bay và địa điểm công cộng để quét đám đông và xác định những người có khả năng bị nhiễm bệnh. Robot khử trùng được trang bị đèn cực tím đã rất hữu ích để khử trùng bệnh viện và các khu vực bị ô nhiễm. Các robot khác giám sát các thông số quan trọng từ các thiết bị y tế hoặc cho phép bệnh nhân giao tiếp từ xa với các y tá. Các chính phủ cũng đang sử dụng máy bay không người lái với công nghệ tương tự để giám sát đường phố, cung cấp vật tư y tế hoặc khử trùng không gian công cộng.

Những nỗ lực trong việc phát triển các chiến lược chính phủ kỹ thuật số sau cuộc khủng hoảng COVID-19 cần tập trung vào việc cải thiện các chính sách bảo vệ dữ liệu và bao gồm kỹ thuật số cũng như tăng cường chính sách và năng lực kỹ thuật của các tổ chức công. Mặc dù quan hệ đối tác công tư là điều cần thiết để triển khai các công nghệ đổi mới, nhưng sự lãnh đạo của chính phủ, các thể chế mạnh và các chính sách công hiệu quả là rất quan trọng để điều chỉnh các giải pháp kỹ thuật số phù hợp với nhu cầu của các quốc gia cũng như ưu tiên an ninh, công bằng và bảo vệ quyền của người dân. Đại dịch COVID-19 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghệ, nhưng cũng là vai trò then chốt của một chính phủ hiệu quả, bao trùm và có trách nhiệm.

Kết luận

Đại dịch COVID-19 đang buộc các chính phủ và xã hội phải hướng tới công nghệ kỹ thuật số để ứng phó với khủng hoảng trong ngắn hạn, giải quyết các tác động kinh tế xã hội trong trung hạn và tái tạo lại các chính sách và công cụ hiện có trong dài hạn. Để vượt qua những thời điểm đầy thách thức này đòi hỏi các chính phủ phải áp dụng cách tiếp cận của chính phủ cởi mở và sử dụng các kênh truyền thông kỹ thuật số để cung cấp thông tin đáng tin cậy về sự phát triển COVID-19 toàn cầu và quốc gia. Các nền tảng tham gia điện tử có thể đại diện cho các công cụ hữu ích để tương tác với các nhóm dễ bị tổn thương trực tuyến và thiết lập các sáng kiến ​​kỹ thuật số để tập thể động não cho các ý tưởng chính sách trước những thách thức xã hội và kinh tế quan trọng.

Quan hệ đối tác công tư hiệu quả, thông qua chia sẻ công nghệ, chuyên môn và công cụ, có thể hỗ trợ các chính phủ khởi động lại nền kinh tế và xây dựng lại xã hội. Đặc biệt, các nước đang phát triển sẽ cần sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế trong việc giảm thiểu khủng hoảng. Do đó, sự hợp tác dựa trên dự án khu vực, quốc gia và địa phương với các công ty khu vực tư nhân, các tổ chức quốc tế và các bên liên quan khác là cần thiết. Về lâu dài, các chính phủ cần đẩy nhanh việc triển khai các công nghệ kỹ thuật số sáng tạo như công nghệ dựa trên AI, blockchain và máy bay không người lái. Đầu tư vào các công nghệ này có thể hỗ trợ rất nhiều cho khả năng phục hồi trong tương lai của nền kinh tế y tế và cung cấp dịch vụ công.

Suy cho cùng chính phủ số, chính phủ điện tử đều có một yếu tố cần thiết không thay đổi đó là chính sách. Bài viết đã tổng hợp các khía cạnh mà chính phủ điện tử cần đẩy mạnh và thúc đẩy để phát triển hơn nữa chính phủ điện tử. Chính phủ điện tử cần có các chính sách hợp lý để thúc đẩy phát triển ngay từ thời điểm đại dịch này.

Vũ Cao Minh Đức