Trong đó các mục tiêu trong xây dựng Chính phủ số được nêu lên đầu tiên. Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động:
- 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động;
- 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước);
- 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ;
- 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư, Đất đai, Đăng ký doanh nghiệp, Tài chính, Bảo hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bước mở dữ liệu của các cơ quan nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời, một lần khai báo, trọn vòng đời phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội;
- 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý.
Để tăng cường các biện pháp nhằm thực hiện các nội dung này, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Năm nhóm mục tiêu đến năm 2025 được đề ra trong Chiến lược gồm: Cung cấp dịch vụ chất lượng phục vụ xã hội; huy động rộng rãi sự tham gia của xã hội; vận hành tối ưu các hoạt động của cơ quan nhà nước; giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế-xã hội; thay đổi đột phá xếp hạng quốc gia, với các chỉ tiêu cần đạt là đưa Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu cả về chỉ số tổng thể, chỉ số tham gia điện tử cũng như chỉ số dữ liệu mở.
Trong đó, người dân, doanh nghiệp có thể sử dụng dịch vụ số theo nhu cầu cá thể hóa, theo suốt cuộc đời, khi cần, theo cách thuận tiện, trực tuyến hoặc trực tiếp, dễ dàng, đơn giản, nhanh chóng, không giấy tờ, không cần sự hiện diện nếu pháp luật không yêu cầu. Mỗi người dân có danh tính số kèm theo QR code, tiến tới đều có điện thoại thông minh. Mỗi hộ gia đình có địa chỉ số, có khả năng truy cập Internet cáp quang băng rộng. Mỗi người dân đều có hồ sơ số về sức khỏe cá nhân. Mỗi trạm y tế xã đều triển khai hoạt động quản lý trạm y tế xã trên môi trường số. Mỗi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đều triển khai tư vấn khám, chữa bệnh từ xa dựa trên nhu cầu thực tế. Mỗi bệnh viện, trung tâm y tế công đều triển khai hồ sơ bệnh án điện tử, thanh toán viện phí không dùng tiền mặt, đơn thuốc điện tử. Công khai giá thuốc, giá trang thiết bị y tế, giá khám chữa bệnh. Mỗi học sinh, sinh viên đều có hồ sơ số về việc học tập cá nhân. Mỗi cơ sở đào tạo đều triển khai hoạt động quản lý dạy và học trên môi trường số. Triển khai thanh toán học phí không dùng tiền mặt, học liệu số. Triển khai đại học số là quốc gia số thu nhỏ, thay đổi mô hình dạy và học để tối ưu hóa vận hành các cơ sở đào tạo đại học, tối ưu hóa trải nghiệm học tập của sinh viên và khuyến khích các mô hình đào tạo mới. Cơ quan Nhà nước thiết kế mô hình tổ chức, cách thức vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, tạo ra môi trường làm việc và công cụ làm việc để cán bộ, công chức, viên chức có thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình, kết nối và hợp tác với nhau dễ dàng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn...
Khung pháp lý Chính phủ số của OECD
Đại dịch COVID-19 đã làm nổi bật lên tầm quan trọng của công nghệ số và dữ liệu trong việc xây dựng khả năng phục hồi kinh tế và xã hội thông qua các kế hoạch xây dựng chính phủ kiến tạo, năng động và đổi mới. Ở các quốc gia có nền tảng chính phủ số phát triển, Công nghệ số và dữ liệu đóng một vai trò quan trọng trong việc quản lý các rủi ro kinh tế, hỗ trợ các xã hội và tăng trưởng . Đa phần ở những quốc gia mà công nghệ số hoặc dữ liệu không được sử dụng hiệu quả, cuộc khủng hoảng COVID-19 đã làm nổi bật những lỗ hổng, sự bất bình đẳng, và những thách thức ngày càng khó khăn. Ở mọi nơi, cuộc khủng hoảng do Covid-19 mang lại đều yêu cầu các chính phủ phải chia sẻ các bài học về cách ứng dụng công nghệ số và những hạn chế cần phải hoàn thiện.
Vấn đề suy giảm lòng tin của người dân là vấn đề mà đa phần các chính phủ trên thế giới đang gặp phải trong thời kì đại dịch. Bối cảnh thế giới cũng liên tục thay đổi trên nhiều mặt và nhanh chóng do sự xuất hiện của “thời đại số” - một giai đoạn mới với những keyword đặc trưng là “Open, Digital, Global” so với trước đây là “Closed, Digital, Local”.
Đại dịch COVID-19 và cuộc khủng hoảng đa chiều mà nó gây ra đã khiến các nhiều chính phủ phải tan rã, tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để xem lại các phương pháp tiếp cận chiến lược về việc sử dụng các công cụ và dữ liệu số nhằm cải thiện việc cung cấp giá trị cho cộng đồng. Các chính phủ phải tăng cường năng lực của mình để phản ứng kịp thời trong các làn sóng tiếp theo của đại dịch hoặc chuẩn bị cho các cuộc khủng hoảng trong tương lai bằng cách đặt ra các các chiến lược phục hồi nền kinh tế, phát triển bền vững cũng như đóng góp lâu dài vào cải cách khu vực công. Để tận dụng cơ hội mang tính thời cuộc này đòi hỏi mọi chính phủ cần phải hiểu cách đưa ra các quyết định đúng đắn trong phát triển chính phủ số dựa trên bối cảnh trong nước, thay vì chỉ đơn giản là đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số của khu vực công. Nếu được thực hiện một cách đúng đắn thi ngay sau đại dịch, các quốc gia sẽ định hình được việc cải cách khu vực công và hành động thúc đẩy việc sử dụng Công nghệ số, dữ liệu số trong khu vực công trong nhiều năm tới.
Chuyển đổi số thành công sẽ cho phép các khu vực công hoạt động hiệu quả, nhất là việc cung cấp các dịch vụ công đơn giản hơn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để thực hiện đầy đủ sự chuyển đổi số này đòi hỏi một sự nâng cấp mô hình từ chính phủ điện tử sang chính phủ số (điều này được nhấn mạnh bởi Khuyến nghị năm 2014 của OECD về Hội đồng Các chiến lược Chính phủ số). Theo Khuyến nghị, chính phủ số được hiểu là “việc sử dụng các công nghệ số như một phần được tích hợp trong chiến lược hiện đại hóa của các chính phủ, nhằm tạo ra giá trị nhiều hơn cho cộng đồng”.
Kể từ khi được thông qua, Khuyến nghị của OECD đã được áp dụng trong nhiều cuộc quy trình đánh giá của chính phủ số để hỗ trợ việc phân tích và lập khung cho việc xây dựng chính sách, giúp các chính phủ thực hiện nâng tầm chính phủ điện tử thành chính phủ số. Việc phân tích này đã thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc học tập chia sẻ kinh nghiệm và giúp xác định các đặc điểm thiết yếu của một chính phủ số. Những đặc điểm này tạo nên Khung pháp lý Chính phủ số của OECD. Được trình bày trước các nhà Lãnh đạo trong cuộc họp năm 2018 tại Hàn Quốc, Khung bao gồm 6 đặc điểm sau
Khung pháp lý Chính phủ số của OECD
- Số hóa từ thiết kế: thiết lập, tổ chức lãnh đạo rõ ràng, điều phối và thực thi hiệu quả. Trong đó, công nghệ số không chỉ được coi là vấn đề kỹ thuật, mà còn như một yếu tố chuyển đổi bắt buộc phải được thực hiện trong toàn bộ các quy trình hoạch định chính sách.
- Khu vực công dựa trên dữ liệu: Thực hiện các quy trình để quản lý dữ liệu như một tài sản quan trọng trong việc tạo ra giá trị cho cộng đồng thông qua ứng dụng của chúng trong hoạch định, cung cấp và giám sát các chính sách công. Thông qua các quy tắc và các nguyên tắc đạo đức để tái sử dụng đáng tin cậy và an toàn.
- Chính phủ như một nền tảng: Đáp ứng nhu cầu của người dùng khi cung cấp các nguyên tắc, công cụ, dữ liệu rõ ràng, minh bạch. Áp dụng các phần mềm để cung cấp dịch vụ cho các nhóm đối tượng khác nhau, theo hướng người dùng, nhất quán, liền mạch, cung cấp dịch vụ tích hợp, chủ động và liên ngành.
- Mở theo mặc định: Theo mặc định, chính phủ mở dữ liệu và các quy trình hoạch định chính sách (bao gồm cả các thuật toán) có sẵn cho công chúng tham gia, trong giới hạn của luật pháp và cân bằng với các lợi ích quốc gia và cộng đồng.
- Cá nhân hóa theo người dùng: Chính phủ trở nên hướng tới người dùng hơn bằng cách trao vai trò trung tâm cho nhu cầu của con người và sự thuận tiện trong việc định hình các quy trình, dịch vụ và các chính sách.
- Tính chủ động: Tính chủ động thể hiện khả năng của các chính phủ và công chức trong việc dự đoán nhu cầu của mọi người và đáp ứng nhanh chóng để người dùng không phải tham gia vào quá trình cung cấp dữ liệu và dịch vụ rườm rà.
So sánh “Mở theo mặc định” và “Mở theo thiết kế”
Xây dựng chính phủ có tính linh hoạt và thích ứng
Ứng dụng thử nghiệm của Khung trong Khảo sát đánh giá quốc gia và phát triển Chính phủ số 1.0 đã cho thấy 04 trong số 06 đặc điểm này mang tính chức năng nền tảng (Số hóa từ thiết kế; Khu vực công quyết định theo dữ liệu; Chính phủ như một nền tảng; Mở theo mặc định) và còn lại cà các đặc điểm hình thành trong quá trình chuyển đổi (do người dùng điều khiển và chủ động). Khung được xây dựng dựa trên Khuyến nghị OECD của Hội đồng Các chiến lược về Chính phủ số để thúc đẩy sự phát triển ở trên cả sáu phương diện. Quá trình này nhấn mạnh rằng các đột phá, các mô hình và sáng kiến thể chế giúp khắc phục tình trạng quan liêu, phát triển riêng biệt theo chiều dọc, hạn chế các lỗ hổng, và thúc đẩy tính ngang tầm, liên kết, phối hợp và hiệp đồng giữa các cấp chính quyền. Điều này cũng thể hiện một sự thay đổi mô hình trong việc quản lý dữ liệu của chính phủ số, khu vực công và cần thiết để phát triển nhiều ý tưởng về các dịch vụ số theo hướng cá nhân hóa. Theo mô hình mới, các dịch vụ số là cốt lõi, hỗ trợ bao trùm cho chuyển đổi số của các ngành vì các dịch vụ công chính là những tương tác giữa người dân và chính phủ.
Khu vực công dựa trên dữ liệu
Mặc dù Các chính phủ không thiết kế các dịch vụ công để phục vụ duy nhất một tổ chức, một bên liên quan hoặc một cỗ máy, nhưng thay vì chỉ tập trung vào đáp ứng nhu cầu, cần phải tạo cơ sở cho động lực cho việc thay đổi quy trình nội bộ và các hoạt động nhằm kết nối các bộ phận khác nhau trong lĩnh vực quản trị để nâng cao hiệu quả và trải nghiệm người dùng, đồng thời củng cố lòng tin vào chính phủ Một chính phủ số thể hiện mức độ phát triển cao hơn trên sáu khía cạnh không chỉ để đạt được hiệu quả nội bộ và tính minh bạch, mà còn để cung cấp các dịch vụ công phù hợp, đáp ứng tốt kì vọng của mọi người dân.
Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu và thực hiện đã cho thấy rằng cách tiếp cận Số hóa theo thiết kế sẽ hoạt động như một động lực cốt yếu cho các chính sách số hóa trên các lĩnh vực công, tạo lập môi trường để nhúng các nền tảng mang các đặc tính còn lại của một chính phủ số trong quá trình hoạch định chính sách, cũng như trong các dự án và sáng kiến kỹ thuật số liên ngành và xuyên ngành. Cách tiếp cận này thúc đẩy quá trình chuyển đổi số gắn kết và bền vững hơn cho khu vực công và mang lại giá trị tốt hơn. Chính phủ số hóa theo thiết kế có thể và cần được các chính phủ chấp nhận như một bộ phận quan trọng của khu vực công rộng lớn, hiện đại.
Thúc đẩy các chính phủ phát triển theo sáu đặc điểm theo Khung pháp lý Chính phủ số của OECD sẽ góp phần định hình lại các tương tác giữa các chính phủ và công chúng thông qua việc mở rộng sự tham gia của các bên liên quan, giúp họ được trang bị tốt hơn, các công chức được trao quyền nhiều hơn, nâng cao trách nhiệm giải trình trong khu vực công và những cơ hội mới cho phát triển trí tuệ tập thể. Cuộc khủng hoảng COVID-19 đã thể hiện tầm quan trọng trong hợp tác và kết nối, tận dụng trí tuệ tập thể của cả xã hội để phản ứng một cách linh hoạt, minh bạch và nhanh chóng hơn. Các công cụ và dữ liệu số đã được chứng minh là tài sản quan trọng cho những người ra quyết định, trợ giúp các tổ chức trong khu vực công phát triển. Khung này cung cấp nền tảng để thúc đẩy các nỗ lực đáp ứng nhu cầu kinh tế và xã hội, xây dựng chính phủ linh hoạt và thích ứng.
Trần Thanh Hà
Tài liệu tham khảo
[1] OECD Public Governance Policy Papers No. 02 : The OECD Digital Government Policy Framework: Six dimensions of a Digital Government. Published on October 07, 2020