Đang xử lý.....

Đại dịch covid-19 mang đến thế hệ số hóa tiếp theo cho Chính phủ  

Đại dịch COVID-19 diễn ra trên toàn cầu khiến cho Chính phủ các quốc gia bắt buộc phải thúc đẩy áp dụng cung cấp các dịch vụ công kỹ thuật số (dịch vụ số) với quy mô lớn và tốc độ triển khai nhanh chưa từng có. Đó là bước đệm tạo bệ phóng cho sự phát triển đầy hứa hẹn của Chính phủ số trong tương lai không xa.
Thứ Tư, 29/12/2021 333
|

Trước đại dịch COVID-19, các Chính phủ trên khắp thế giới cũng đã quan tâm và triển khai ứng dụng những tiến bộ của kỹ thuật số trong hoạt động của mình, mặc dù ở các quy mô khác nhau, tốc độ triển khai áp dụng khác nhau và cho thấy sự không đồng đều của từng quốc gia. Ở một góc độ nào đó, các quốc gia này đã đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ, tuy nhiên theo các chuyên gia đánh giá đây vẫn đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi số. Và có một nguy cơ “kém hoàn hảo” của việc triển khai áp dụng công nghệ số đang là nguyên nhân làm chậm quá trình chuyển đổi số ở nhiều khu vực công.

Khi đại dịch COVID-19 toàn cầu xảy ra, mọi thứ đã thay đổi. Kỹ thuật số không còn là một thứ “tốt đẹp nên có” đối với chính phủ, mà là một mệnh lệnh, một sự tất yếu. Hãy xem xét các tính năng hấp dẫn nhất của  Chính phủ số: khả năng phục vụ hiệu quả, quy mô lớn, giá thành rẻ và mức độ thích ứng nhanh chóng. Sự gián đoạn các hoạt động, sự chia cắt về mặt không gian do tác động của Đại dịch khiến những yếu tố trên trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Trên toàn cầu, phản ứng của khu vực công đối với đại dịch đã dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng của loại hình mà Chính phủ thường không thấy. Từ khám chữa bệnh từ xa đến làm việc từ xa và tòa án ảo đến giáo dục ảo, nhiều đổi mới kỹ thuật số quy mô lớn đã được triển khai với tốc độ chưa từng có. Cơ sở hạ tầng số, lực lượng lao động số và kết nối hướng tới người dân đã tạo ra những thành công này không chỉ hữu ích trong thời kỳ đại dịch; những điều này sẽ đặt nền móng cho  Chính phủ số trong nhiều năm tới.

Số hóa đã tăng tốc như thế nào ?

Để đáp ứng nhu cầu của đại dịch, các Chính phủ đã tăng tốc hành trình kỹ thuật số của họ theo ba khía cạnh chính:

1) Cơ sở hạ tầng  số với quy mô được mở rộng

Đại dịch mang lại vô số thách thức cho các Chính phủ. Khi các quan chức y tế công cộng trên toàn thế giới ra lệnh cho công dân ở nhà và các doanh nghiệp hoạt động từ xa, các cơ quan Chính phủ phải vật lộn với sự bùng nổ nhu cầu về các dịch vụ  số, nhu cầu cung cấp các dịch vụ đó trong một môi trường hoàn toàn xa (ít nhất là vào thời điểm đó), và xử lý các yêu cầu cho các dịch vụ mới chưa từng tồn tại trước đây.

Kết quả là, các Chính phủ trên khắp thế giới đã mở rộng đáng kể khả năng kỹ thuật số của họ. Để đáp ứng bộ ba thách thức, các Chính phủ đã sử dụng ba cách tiếp cận kỹ thuật số bổ sung để giải quyết từng thách thức:

i) Tăng cường trí tuệ nhân tạo và tự động hóa

Khi nhu cầu tăng cao trong thời kỳ đại dịch, các Chính phủ ngày càng chuyển sang tự động hóa để theo kịp tốc độ. Từ việc tự động hóa các tác vụ thủ công đến triển khai trợ lý ảo được hỗ trợ bởi trí thông minh nhân tạo (AI), các Chính phủ đã sử dụng các công cụ tự động hóa để cung cấp dịch vụ nhanh hơn và giảm khối lượng công việc của con người. Ví dụ: Bộ Lao động Romania đã sử dụng tự động hóa quy trình bằng robot (RPA) để phân phối các khoản thanh toán trực tiếp cho người lao động tự do bị ảnh hưởng bởi COVID-19. Trong số 285.000 xác nhận quyền sở hữu được xử lý, 96% được tự động hóa, với mỗi xác nhận quyền sở hữu mất 36 giây thay vì 20 phút khi được xử lý thủ công.

Tại Hoa Kỳ, Bộ Nhà ở và Phát triển Đô thị, Viện Y tế Quốc gia và Sở Thuế vụ đã sử dụng RPA để giúp nhân viên của họ chuyển từ công việc có giá trị thấp sang công việc có giá trị cao và giải quyết hiệu quả nhu cầu tăng đột biến đối với các dịch vụ quan trọng.

Tương tự, trợ lý ảo, chatbot và “bác sĩ ảo” do AI hỗ trợ đã giúp các Chính phủ cung cấp phản hồi COVID-19 nhanh hơn bằng cách trả lời các truy vấn của công dân, truy tìm địa chỉ liên hệ và vượt qua rào cản ngôn ngữ. Ví dụ: dịch vụ AlloCovid của Pháp đã sử dụng trợ lý giọng nói dựa trên AI để hướng dẫn những công dân có triệu chứng coronavirus đến các chuyên gia chăm sóc sức khỏe thích hợp. Trong khi đó, Brazil sử dụng rô bốt hỗ trợ AI để hỗ trợ truy tìm liên lạc.

Việc áp dụng này không có khả năng giảm sau đại dịch. Với 79% quan chức chính phủ chỉ ra rằng tự động hóa đang tạo ra tác động tích cực đáng kể đến hoạt động kinh doanh của họ, việc áp dụng tự động hóa có khả năng sẽ tiếp tục.

ii) Khai thác các giải pháp điện toán đám mây

Đại dịch buộc các Chính phủ không chỉ đáp ứng nhu cầu dịch vụ tăng đột biến mà còn phải thực hiện từ xa. Kết quả là nhiều Chính phủ đã phải nhanh chóng chuyển lực lượng lao động của họ sang làm việc từ xa và tạo ra các kênh mới để cung cấp dịch vụ ảo — tất cả trên quy mô lớn, chỉ trong vài tuần. Đối với nhiều người, câu trả lời cho thách thức này nằm ở việc khai thác đám mây.

Trong khi có nhiều giải pháp cho công việc từ xa, từ máy tính để bàn từ xa đến mạng riêng ảo, nhiều Chính phủ phụ thuộc vào các giải pháp này nhận thấy chúng không đủ để đối phó với quy mô làm việc từ xa đột ngột trong đại dịch. Mặt khác, về bản chất, đám mây có khả năng mở rộng nhanh hơn, cho phép chuyển đổi liền mạch sang công việc từ xa. Ví dụ: ở California, 90% trong số khoảng 200.000 nhân viên của bang đã có thể chuyển sang làm việc từ xa một cách suôn sẻ nhờ những nỗ lực ban đầu của chính quyền bang trong việc theo đuổi giải pháp đám mây.

Việc chuyển đổi sang đám mây không chỉ cho phép nhân viên làm việc từ xa mà còn giúp các Chính phủ tiếp cận người dân. Ví dụ: ở Singapore, các cơ quan công quyền đã sử dụng “postman.gov.sg”, một công cụ liên lạc dựa trên đám mây đa kênh, để gửi tin nhắn hàng loạt với các cập nhật quan trọng cho người dân. Tính đến tháng 11 năm 2020, công cụ này đã được sử dụng để chia sẻ hơn 1,3 triệu tin nhắn.

iii) Xây dựng kiến ​​trúc  số “toàn bộ Chính phủ”

Đại dịch cũng tạo ra nhu cầu về các dịch vụ hoàn toàn mới. Hầu hết các cơ quan Chính phủ không có kế hoạch soạn thảo các quy định về cách xa xã hội hoặc điều phối hậu cần vắc xin ở nhiệt độ dưới 0oC. Mặc dù những thách thức này và những thách thức khác có thể là mới đối với nhiều bộ phận của Chính phủ, nhưng chúng không nhất thiết là mới đối với Chính phủ nói chung. Do đó, chìa khóa thành công là tạo ra một kiến ​​trúc  số “toàn bộ Chính phủ” có thể làm cho các giải pháp liên quan được tạo ra trong một lĩnh vực của Chính phủ có sẵn cho lĩnh vực khác của Chính phủ.

Mặc dù khái niệm này không mới, nhưng nó đã có tầm quan trọng mới khi đại dịch làm nổi bật nhu cầu cung cấp dịch vụ nhanh chóng và liên tục trong khu vực công. Bằng cách xây dựng những hiệu quả này, các Chính phủ có thể tăng năng lực thông báo công khai, cải thiện an ninh và hợp tác trên các cơ quan. Đây là điều mà các nền tảng như GOV.UK tìm cách đạt được. Với sự trợ giúp của các công cụ như GOV.UK Design System, GOV.UK Notify và GOV.UK Pay, cả chính quyền trung ương và địa phương đều có thể đảm bảo dịch vụ nhanh chóng cho người dân trong đại dịch. Ví dụ: bằng cách thêm chức năng liên kết thanh toán của GOV.UK Pay, Bộ Nội vụ Vương quốc Anh đã có thể tạo một cổng thanh toán trực tuyến trong vòng vài tuần để hỗ trợ các khoản thanh toán mà trước đây yêu cầu nhân viên phải có mặt tại chỗ.

Trong một ví dụ khác, Liên minh Viễn thông Quốc tế, cơ quan chuyên trách về công nghệ thông tin và truyền thông của Liên hợp quốc, đã hợp tác với Chính phủ Estonia và Đức, cũng như Liên minh Tác động Kỹ thuật số, để xúc tác chuyển đổi  số ở các quốc gia có nguồn tài nguyên thấp. Sự hợp tác có kế hoạch xây dựng một nền tảng  Chính phủ số dựa trên các khối xây dựng an toàn, có thể tái sử dụng và tương thích với nhau có thể giúp các quốc gia có nguồn lực thấp triển khai và mở rộng các dịch vụ  số của họ mà không cần đầu tư nhiều nguồn lực vào việc xây dựng các hệ thống phụ trợ của họ. Smart Africa, một liên minh trong số 30 quốc gia Châu Phi có mục tiêu thiết lập Châu Phi như một nền kinh tế tri thức, là đối tác thực hiện đầu tiên của sáng kiến.

2) Tạo ra một lực lượng lao động  số

Việc xây dựng cơ sở hạ tầng  số là cần thiết để thúc đẩy động lực kỹ thuật số của Chính phủ, nhưng Chính phủ không thể duy trì đà phát triển đó. Việc xây dựng một lực lượng lao động thông thạo về kỹ thuật số cũng không kém phần cần thiết. Đại dịch làm nổi bật nhu cầu ngày càng tăng đối với lực lượng lao động công hiểu biết về công nghệ, biết chữ  ký số. Do đó, các Chính phủ đang thúc đẩy nỗ lực nâng cao trình độ hiểu biết kỹ thuật số của nhân viên.

Ví dụ, như một phần của Chiến lược Dữ liệu Quốc gia của Vương quốc Anh được phát hành vào tháng 9 năm 2020, Chính phủ đã công bố kế hoạch đào tạo 500 nhà phân tích khu vực công về khoa học dữ liệu vào năm 2021. Tương tự như vậy, Văn phòng Quản lý và Ngân sách Hoa Kỳ đưa thí điểm đào tạo lại khoa học dữ liệu của mình vào ứng dụng thực tế, Triển khai các học viên để phân tích tập dữ liệu từ các cơ quan tương ứng của họ. Trong một ví dụ khác, Trường Chính phủ Abu Dhabi và Cơ quan Kỹ thuật số Abu Dhabi đã hợp tác để khởi chạy một nền tảng chuyên biệt, vào tháng 12 năm 2020, để cải thiện trình độ kỹ năng công nghệ của lực lượng lao động trong khu vực công của Các Tiểu vương quốc.

Có công nhân lành nghề trong khu vực công là một lợi thế  đang thu hút sự quan tâm từ nhiều đối tác. Hãy xem xét sáng kiến ​​Kỹ năng  số dành cho Nhân viên Dịch vụ Công của Châu Phi, được phát triển với sự cộng tác của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Sáng kiến ​​này giúp các Chính phủ Châu Phi tham gia đào tạo lực lượng lao động của họ về các kỹ năng quan trọng đối với các nỗ lực phục hồi, với lợi ích bổ sung là tối đa 250 nhân viên được đào tạo miễn phí. Tương tự như vậy Mission Karmayogi của Ấn Độ là một chương trình phát triển kỹ năng nhằm đào tạo công chức về công nghệ  số  , thông qua mô hình công-tư dựa trên đăng ký. Mặc dù được thúc đẩy bởi nhu cầu kỹ thuật số của đại dịch, nhưng lực lượng lao động có kỹ năng được phát triển trong các chương trình này và các chương trình khác sẽ giúp phục vụ công chúng trong nhiều năm tới.

3) Đầu tư vào kết nối công dân

Cuối cùng, lợi ích của việc tăng cường các giải pháp  số và thúc đẩy ảo hóa các dịch vụ chỉ có thể được thực hiện đầy đủ khi người dân có thể tiếp cận các dịch vụ đó. Do đó, việc xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng cho phép tiếp cận tốt hơn với các giải pháp  số - đặc biệt là đối với những người  gặp bất lợi nhất - trở nên cần thiết.

Một số quốc gia đã công bố các sáng kiến ​​nhằm tăng đáng kể chi tiêu cho cơ sở hạ tầng  số của họ trong vài năm tới. Các khoản đầu tư sẽ hướng tới những cải tiến như hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ, lắp đặt mạng cáp quang để tăng khả năng truy cập internet và thu hẹp “khoảng cách  số” giữa các cộng đồng kết nối tốt nhất và kém kết nối nhất.

Ví dụ, chính phủ Tây Ban Nha có kế hoạch đầu tư 20 tỷ euro vào cơ sở hạ tầng  số trong ba năm tới, với khoản đầu tư tư nhân bổ sung 50 tỷ euro như một phần của sáng kiến ​​Digital Spain 2025.18 Trong khi đó, Chính phủ Pháp dự định chi 7 tỷ euro về đầu tư kỹ thuật số, bao gồm nâng cấp hệ thống thông tin công cộng và tăng cường nỗ lực hòa nhập kỹ thuật số cho người cao tuổi.

Với việc ngày càng nhiều công dân sử dụng điện thoại thông minh để truy cập các dịch vụ, việc cải thiện kết nối di động cũng rất quan trọng. Lấy trường hợp của Thái Lan, nơi mạng 5G là một thành phần quan trọng trong kế hoạch khôi phục kỹ thuật số 4.0 của Chính phủ Thái Lan và đã giúp thúc đẩy sự hợp tác giữa khu vực công và tư nhân. Tương tự, Chính phủ Scotland đã công bố tài trợ 4 triệu bảng Anh để xây dựng một loạt các trung tâm sẽ triển khai dịch vụ 5G trên toàn quốc theo Chương trình Kết nối 5G của Scotland. Tại Úc, Chính phủ đã phân bổ khoảng 21,2 triệu đô la Mỹ để đẩy nhanh việc triển khai 5G, bao gồm đầu tư vào các thử nghiệm thương mại 5G và các trạm thử nghiệm trong các lĩnh vực công nghiệp chính.

Tăng trưởng dữ liệu

Theo dự báo của Gartner, các khoản đầu tư vào CNTT của Chính phủ trên toàn thế giới đang chuyển từ các thiết bị và trung tâm dữ liệu sang phần mềm và dịch vụ CNTT, dự kiến chiếm gần một nửa trong tổng số 452 tỷ USD đầu tư vào CNTT của Chính phủ vào năm 2021

Tại Hoa Kỳ, chính quyền Biden đã đề xuất bổ sung 9 tỷ đô la Mỹ vào Quỹ Hiện đại hóa Công nghệ để thiết lập các dịch vụ CNTT và an ninh mạng dùng chung trong toàn Chính phủ.

Hàn Quốc, được công nhận là nước đi đầu trong phản ứng COVID-19, cũng được xếp hạng cao nhất trong Chỉ số Chính phủ  số năm 2019 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế.

Tiến về phía trước

Đại dịch đã là một điểm uốn trong quá trình trưởng thành về kỹ thuật số của các Chính phủ. Trong khi những nỗ lực ban đầu để tăng tốc chuyển đổi  số đã thu được lợi nhuận, các Chính phủ sẽ cần tiếp tục động lực. Điều này có nghĩa là các cơ quan nên áp dụng một cách tiếp cận gắn kết để hiện đại hóa khả năng kỹ thuật số của họ. Một số thành phần thiết yếu bao gồm:

Đề cao khả năng thích ứng trong hoạt động. Mở rộng các mô hình kinh doanh có thể giúp cơ quan thích ứng và phát triển trong điều kiện thay đổi. Suy nghĩ lại về cấu trúc tổ chức “end-to-end” và phá vỡ các lỗ hổng ảnh hưởng đến việc tối ưu hóa.

Xây dựng cơ sở hạ tầng linh hoạt và có thể mở rộng. Tận dụng điện toán đám mây để có khả năng mở rộng và sự linh hoạt trong các quy trình quản trị.

Tạo quy trình làm việc thông minh. Tiếp tục tận dụng AI và tự động hóa để tăng hiệu quả và chuyển nguồn nhân lực sang các nhiệm vụ có giá trị cao hơn.

Tăng cường khả năng phục hồi của cơ sở hạ tầng. Cung cấp phản ứng và khả năng phục hồi trên không gian mạng đối với cơ sở hạ tầng an toàn (mạng và CNTT), ứng dụng, thiết bị và dữ liệu ở trung tâm và vùng biên. Áp dụng bảo mật liên hợp để quản lý nhận thức tình huống và các điểm truy cập khi bối cảnh thay đổi.

Phát triển mạng lưới nhân tài rộng mở, hiểu biết về kỹ thuật số. Hỗ trợ sự hợp tác giữa người và máy để tăng cường lực lượng lao động và cung cấp dịch vụ tốt hơn.

Bùi Trung Hiếu

Nguồn tham khảo: https://www2.deloitte.com/xe/en/insights/industry/public-sector/government-trends/2021/digital-government-transformation-trends-covid-19.html