Đang xử lý.....

CHUYỂN ĐỔI SỐ VÀ HỘI TỤ HƯỚNG TỚI CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: BẰNG CHỨNG TỪ CÁC DOANH NGHIỆP Ý  

Chương trình nghị sự đến năm 2030 của Liên hợp quốc đã nhấn mạnh tiềm năng của công nghệ kỹ thuật số để nâng cao hiệu suất bền vững, giả định rằng Chuyển đổi kỹ thuật số (Chuyển đổi số) có thể cho phép sự hội tụ của các doanh nghiệp hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững. Mặc dù vậy, chưa có một minh chứng rõ ràng về việc liệu có mối quan hệ tích cực giữa số hóa và tính bền vững hay không, vì những tác động của chuyển đổi số vẫn cần thêm thời gian để chứng minh.
Thứ Ba, 06/12/2022 176
|

Các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs- Sustainable Development Goals) trong Chương trình nghị sự đến năm 2030, được Liên hợp quốc thông qua vào tháng 9 năm 2015, nhấn mạnh vai trò của công nghệ kỹ thuật số trong việc tăng cường tính bền vững. Các SDG bao gồm: kế hoạch hành động vì con người, hành tinh và sự thịnh vượng; chuyển thế giới sang con đường bền vững và có khả năng phục hồi, trong bối cảnh này, chuyển đổi số có tiềm năng cho phép đạt được các điều kiện bền vững. Mối quan hệ giữa số hóa và tính bền vững, đã được giải quyết gần đây, đôi khi làm dấy lên nghi ngờ về những đóng góp tích cực tiềm năng của số hóa đối với việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.

Nhìn chung, mối quan hệ giữa số hóa và tính bền vững là một vấn đề gây tranh cãi cần được nghiên cứu thêm để đánh giá liệu Chuyển đổi số có thực sự giúp các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu phát triển bền vững hay không.

Dựa trên những khoảng trống chưa biết tới trong nghiên cứu trên cơ sở đánh giá các doanh nghiệp để kiểm tra một số giả thuyết sau:

a) Công nghệ kỹ thuật số góp phần vào việc đạt được các SDG

Một phân tích hồi quy bội tuyến tính đã được thực hiện với tham chiếu đến các doanh nghiệp Ý được liệt kê trên Thời báo chỉ số giao dịch chứng khoán tài chính Milan (FTSE MIB- Financial Times Milan Stock Exchange Index), chỉ số chuẩn chính cho thị trường chứng khoán Ý, vì nó bao gồm khoảng 80% vốn hóa thị trường của quốc gia này.

Trong những năm gần đây, ý tưởng về tính bền vững đã trở nên gắn bó chặt chẽ với ý tưởng số hóa, làm tăng mức độ liên quan của công nghệ với tư cách là một công cụ để cải thiện hạnh phúc toàn cầu. Thật vậy, kể từ năm 2016, Liên hợp quốc đã thực hiện một chương trình nghị sự quốc tế về phát triển bền vững bằng cách đầu tư vào công nghệ như một động lực phù hợp để đạt được các mục tiêu cụ thể vào năm 2030. Gần đây, Ủy ban Châu Âu đã nhấn mạnh vai trò của công nghệ kỹ thuật số trong việc xây dựng một chiến lược tăng trưởng mới của châu Âu (cái gọi là Thỏa thuận Xanh) nhằm tạo ra một xã hội không có tác động đến môi trường vào năm 2050. Chương trình Nghị sự 2030 tiếp tục quá trình bắt đầu bởi Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, được thực hiện từ năm 2000 đến năm 2015, bằng cách lựa chọn 17 Mục tiêu phát triển bền vững, 169 mục tiêu liên quan và 232 chỉ số. Các SDG được lựa chọn dựa trên ba trụ cột của định nghĩa truyền thống về khả năng tồn tại: xã hội, môi trường và kinh tế. Tất nhiên, trụ cột kinh tế là về hiệu quả kinh tế và tài chính, trụ cột xã hội liên quan đến giải quyết bất bình đẳng và đảm bảo sự hòa nhập và khả năng tiếp cận của các dịch vụ, và trụ cột môi trường liên quan đến việc bảo vệ sinh quyển khỏi khí thải carbon và sự nóng lên toàn cầu. Khía cạnh xã hội quan tâm đến các tác động xã hội của sự đổi mới đối với cộng đồng con người bên trong và bên ngoài tổ chức. Kích thước môi trường quan tâm đến các tác động môi trường từ việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và phát thải chất ô nhiễm. Các khía cạnh kinh tế liên quan đến hiệu quả kinh tế, nếu không có các khía cạnh đó thì chúng sẽ không thể tồn tại lâu dài. Tương tự, Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới định nghĩa tính bền vững là “sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các nhu cầu của chính họ”.

Theo Liên hợp quốc và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), việc đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững có thể được thực hiện bằng cách sử dụng rộng rãi các công nghệ kỹ thuật số, vốn đã trở thành công cụ thiết yếu cho hoạt động của các doanh nghiệp bất kể lĩnh vực nào họ hoạt động.

Chương trình Nghị sự 2030 xác định công nghệ kỹ thuật số là công cụ tiềm năng để đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững, các công nghệ kỹ thuật số dưới dạng dịch vụ y tế điện tử, công nghệ người máy hoặc các giải pháp giảm phát thải có thể giúp các cá nhân, tổ chức và quốc gia đạt được một hành tinh bền vững hơn theo các mục tiêu phát triển bền vững.

Công nghệ kỹ thuật số là sự kết hợp của ba thành phần riêng biệt: tạo tác kỹ thuật số, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và nền tảng kỹ thuật số. Tạo tác kỹ thuật số là các thành phần kỹ thuật số của một sản phẩm mới cung cấp giá trị cụ thể cho người dùng, trong khi cơ sở hạ tầng kỹ thuật số là công cụ cho phép giao tiếp. Nền tảng kỹ thuật số là tập hợp các dịch vụ được chia sẻ lưu trữ các dịch vụ bổ sung; chúng bao gồm, ví dụ, iOS của Apple và trình duyệt Firefox của Mozilla. Phân loại công nghệ kỹ thuật số thành 4 nhóm chính: công nghệ hiệu quả (ví dụ: đám mây), công nghệ kết nối (ví dụ: Internet of Things), công nghệ khử trung gian tin cậy (ví dụ: blockchain) và công nghệ tự động hóa (ví dụ: dữ liệu lớn).

Công nghệ phù hợp nhất để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang tính bền vững bao gồm Internet of Things (loT), phân tích dữ liệu lớn, blockchain, trí tuệ nhân tạo và máy học, đám mây, Internet 5G và các hệ thống thực tế ảo.

Công nghệ kỹ thuật số phù hợp để tạo ra hiệu ứng rộng rãi liên quan đến tất cả các khía cạnh của điều kiện phát triển bền vững, bao gồm năng suất toàn cầu, bình đẳng và hòa nhập, đồng thời bảo vệ môi trường.

Các công nghệ kỹ thuật số cho phép đạt được các mục tiêu phát triển bền vững bằng cách cải thiện khả năng thực hiện những điều sau: bảo vệ hệ sinh thái bằng cách hạn chế tiêu thụ các nguồn tài nguyên quý giá và sản xuất chất thải và khí thải liên quan; đảm bảo khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản cho tất cả mọi người bằng cách giảm bất bình đẳng và tăng cường sức khỏe con người, cũng như toàn bộ chuỗi thực phẩm; tạo ra lợi ích kinh tế do năng suất cao hơn; đổi mới chuỗi cung ứng dựa trên cách tiếp cận lấy khách hàng làm trung tâm; giảm chi phí chung do giảm sử dụng năng lượng không tái tạo; và giới thiệu các quy trình sản xuất vòng tròn.

Về trụ cột môi trường, công nghệ kỹ thuật số cung cấp một phương pháp hiệu quả để bảo vệ hệ sinh thái bằng cách giảm phát thải, đảm bảo khả năng chống chịu với các hiểm họa thiên nhiên và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong bất kỳ lĩnh vực nào (nông nghiệp, công nghiệp và sản xuất). Số hóa hỗ trợ các hệ thống năng lượng các-bon thấp chủ yếu dựa trên năng lượng tái tạo và năng lượng hiệu quả, tạo ra các tác động tích cực về biến đổi khí hậu và giảm thiểu ô nhiễm các loại.

Trụ cột xã hội có thể hưởng lợi từ Chuyển đổi số trong điều kiện tiếp cận rộng rãi với các dịch vụ và hàng hóa cơ bản theo các điều kiện hòa nhập và bình đẳng, đảm bảo các dịch vụ thực phẩm, y tế, nước và năng lượng cho người dân thông qua các hệ thống kinh tế vòng tròn và carbon thấp.

Cuối cùng, liên quan đến trụ cột kinh tế, công nghệ kỹ thuật số cho phép các doanh nghiệp cải tiến quy trình sản xuất của họ, cho phép tăng hiệu quả và giảm lượng khí thải.

Cụ thể, quá trình số hóa có thể thúc đẩy sự hội tụ hướng tới các SDG bằng cách cho phép những điều sau:

• Kết nối và giao tiếp giữa mọi người

• Giám sát các hoạt động và hệ sinh thái trên thế giới

• Phân tích thông tin và tổ chức các quá trình và nguồn lực

• Nâng cao năng lực con người

Điều này làm nổi bật mối quan hệ chặt chẽ giữa tính bền vững và Chuyển đổi số, đã được các học giả đề cập rộng rãi.

Theo các nghiên cứu chính thống, Chuyển đổi số là một quá trình năng động, qua đó công nghệ kỹ thuật số nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp với hoạt động kinh doanh đổi mới. Nói chung, Chuyển đổi số có thể được định nghĩa là sự chuyển đổi từ thời đại tương tự sang thời đại kỹ thuật số, dẫn các doanh nghiệp đến sự cải tiến chung bằng cách quản lý sự thay đổi một cách thành công bằng cách sử dụng công nghệ kỹ thuật số.

Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa số hóa và SDGs. Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) là yếu tố thúc đẩy để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, chỉ ra tiềm năng của nó về việc sử dụng tài nguyên, giáo dục và hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn. Tương tự, Vinuesa et al. cho rằng trí tuệ nhân tạo có thể góp phần đạt được phần lớn các mục tiêu liên quan đến SDGs bằng cách phân biệt giữa các kết quả xã hội, kinh tế và môi trường. Trong bối cảnh này, các học giả khác đã tập trung vào các khu vực địa lý cụ thể, chẳng hạn như bốn quốc gia của Nhóm Visegrad, bằng cách sử dụng các chỉ số cụ thể để đánh giá nỗ lực Chuyển đổi số của các doanh nghiệp và tác động đến việc đạt được các SDG cũng như tác động của Chuyển đổi số đối với nội địa hóa như một yếu tố chính trong thành tựu của họ.

Mối quan hệ giữa Chuyển đổi số và các SDG là một vấn đề quan trọng và đã được đề cập trong một số nghiên cứu, mặc dù sự chú ý đã được tập trung vào các cơ hội mà số hóa mang lại để làm cho một doanh nghiệp nhất định bền vững. Trong bối cảnh này, khách hàng, dữ liệu và sự đổi mới, những động lực chính của Chuyển đổi số, ảnh hưởng đến việc áp dụng các hành vi bền vững. Đặc biệt, các tác giả cho rằng đạt được sự bền vững trong kỷ nguyên kỹ thuật số cần tập trung vào ba biến số chính: lấy khách hàng làm trung tâm, khả năng phân tích dữ liệu và đổi mới mô hình kinh doanh. Ngược lại, các tác giả khác tập trung vào tác động của công nghệ thông minh đối với các mô hình kinh doanh bền vững hoặc về cách các doanh nghiệp hàng đầu trong ngành công nghiệp kỹ thuật số giải quyết vấn đề phát triển bền vững.

Trong bối cảnh này, một số học giả đã thực hiện các phân tích thực nghiệm nhằm đánh giá liệu các công nghệ kỹ thuật số cụ thể có thể thực sự cải thiện các điều kiện bền vững hay không; lĩnh vực được khám phá nhiều nhất trong lĩnh vực này là lĩnh vực môi trường, nơi các công nghệ kỹ thuật số (đặc biệt là trí tuệ nhân tạo) được sử dụng để bảo vệ hệ sinh thái trong các dự án cụ thể (ví dụ: hệ thống quản lý nước thông minh, làng thực vật) bằng cách xác định các bệnh lây truyền qua đường nước. Tương tự, truy xuất nguồn gốc hệ thống thực phẩm và chứng nhận quy trình sản xuất có thể được tiến hành bằng cách sử dụng phân tích dữ liệu lớn và blockchain. Trong bối cảnh xã hội, một số nghiên cứu đã tìm hiểu vai trò của công nghệ số trong hệ thống giáo dục của các nước đang phát triển.

Dựa trên mẫu của 40 doanh nghiệp niêm yết FTSE MIB của Ý từ năm 2016 đến năm 2019 với 160 quan sát, năm 2020 không được xem xét vì dữ liệu ESG chưa có sẵn tại thời điểm phân tích. Khoảng thời gian này được chọn vì năm 2016 đánh dấu điểm bắt đầu của Chương trình nghị sự 2030, được thống nhất vào ngày 25 tháng 9 năm 2015.

Hình 1: Tỷ lệ tổng vốn hóa của các doanh nghiệp trên thị trường của Ý

Biến phụ thuộc (SDGs) cho biết mức độ bền vững của doanh nghiệp về định hướng đối với các Mục tiêu phát triển bền vững; biến này được thể hiện bằng điểm ESG từ năm 2016-2019. Chất lượng dữ liệu và độ tin cậy của cơ sở dữ liệu đã được khẳng định trong nghiên cứu học thuật trong vài năm qua; chi tiết và độ sâu của những dữ liệu này làm giảm sai lệch lựa chọn và đảm bảo tính nhất quán với các cơ sở dữ liệu ESG tiêu chuẩn khác.

b) Công nghệ kỹ thuật số góp phần vào việc đạt được các SDG.

Chuyển đổi số được xác định bằng cách sử dụng hai biến số độc lập: nỗ lực số hóa của một doanh nghiệp và sự quan tâm của họ đối với các khoản đầu tư được thúc đẩy bởi kế hoạch quốc gia về Công nghiệp 4.0.

Nỗ lực số hóa (DE) của một doanh nghiệp được sử dụng như một biến số giải thích để xác định liệu có mối quan hệ giữa Chuyển đổi số và các Mục tiêu phát triển bền vững hay không; thực sự, mối liên hệ giữa các nỗ lực kỹ thuật số của một doanh nghiệp và tác động của nó đối với các hành vi bền vững theo SDGs là trọng tâm chính.

Hầu hết tất cả các báo cáo phi tài chính đã được kiểm toán, cho thấy độ tin cậy của dữ liệu có thể chấp nhận được; do đó, ngay cả khi báo cáo phát triển bền vững không phải là một công cụ công bố thông tin bắt buộc, các kết quả nghiên cứu có thể được coi là đáng tin cậy để giải thích các quyết định của các doanh nghiệp được lựa chọn về số hóa.

Ngoài ra, phân tích tập trung vào các doanh nghiệp niêm yết của FTSE MIB, chiếm khoảng 80% vốn hóa thị trường trong nước, ngụ ý rằng các doanh nghiệp lớn có nhiều khả năng cải thiện chất lượng công bố thông tin hơn các doanh nghiệp nhỏ hơn.

Biến giải thích khác (IND.4.0) được xác định dựa trên sự quan tâm của doanh nghiệp đối với các khoản đầu tư được thúc đẩy bởi kế hoạch quốc gia về Công nghiệp 4.0 về chuyển đổi công nghiệp, công nghệ và kỹ thuật số do Bộ Phát triển Kinh tế Ý đưa ra (Luật Ngân sách Ý 2017). Kế hoạch này nhằm cung cấp các ưu đãi về thuế đối với các khoản đầu tư vào hàng hóa và công nghệ kết nối hệ thống vật lý và kỹ thuật số phù hợp với mô hình Công nghiệp 4.0, khuyến khích tích hợp kỹ thuật số các quy trình sản xuất và chuỗi cung ứng, nâng cao các sản phẩm và quy trình sử dụng thiết bị kỹ thuật số và triển khai các hệ thống phân tích dựa trên dữ liệu lớn.

Kế hoạch Công nghiệp 4.0 thúc đẩy việc sử dụng các công nghệ sáng tạo, giúp các doanh nghiệp thích ứng và Chuyển đổi số; biến này hữu ích để giải thích định hướng của các doanh nghiệp đối với các Mục tiêu phát triển bền vững và các cải tiến liên quan về hiệu quả hoạt động, về mặt kinh tế và các khía cạnh khác.

Như thể hiện trong Bảng 1, thống kê mô tả bao gồm giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tối thiểu và tối đa. Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn được tính toán để tổng hợp dữ liệu quan sát được; Theo Field, phương tiện đại diện cho một bản tóm tắt dữ liệu và độ lệch chuẩn giải thích mức độ tốt của phương tiện đại diện cho dữ liệu.

Bảng 1. Thống kê tóm tắt cho các biến độc lập và kiểm soát.

Biến đổi

Trung bình

SD

Tối thiểu

Tối đa

1. SDGs

57.45

17.15

21.98

91.22

2. Nỗ lực kỹ thuật số của doanh nghiệp

0.0384

0.0321

0.0022

0,1733

3. Công nghiệp 4.0

0.0160

0.0039

0.0100

0.0300

4. Tầm nhìn chiến lược bền vững

0.2236

0.1490

0.1900

0.4575

Giá trị trung bình của biến phụ thuộc là 57,45, trong khi giá trị trung bình của biến độc lập và biến kiểm soát lần lượt là 0,0384,0,0160 và 0,2236; những con số này cho thấy độ lệch chuẩn từ nhỏ đến trung bình so với phương tiện, cho thấy rằng các điểm dữ liệu gần với phương tiện. Do đó, những dữ liệu này cho thấy sự tái tạo công bằng của thực tế.

 Để đánh giá mối quan hệ này, phân tích tập trung vào hai biến số độc lập cụ thể: nỗ lực số hóa của các doanh nghiệp niêm yết của Ý và sự quan tâm của họ đến các khoản đầu tư được thúc đẩy bởi kế hoạch quốc gia về Công nghiệp 4.0 về chuyển đổi công nghiệp, công nghệ và kỹ thuật số do Bộ Công nghiệp Ý đưa ra.

Trong vài năm qua, số hóa ngày càng trở nên phù hợp với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã đổi mới sản phẩm và quy trình của họ, cho phép nâng cao hiệu suất về lâu dài, sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Các doanh nghiệp đã đầu tư ngày càng nhiều vào Chuyển đổi số. Trong bối cảnh của Ý, điều này một phần là do các ưu đãi của kế hoạch quốc gia về Công nghiệp 4.0. Nhiều công nghệ mới này đặc biệt hữu ích trong việc cho phép các doanh nghiệp cải thiện mối quan hệ của họ với hệ sinh thái và cộng đồng trong khi nâng cao hiệu quả kinh tế của họ.

Chuyển đổi số không những giúp các doanh nghiệp cải thiện quy trình kinh doanh, điều hành bộ máy mà còn được chú trọng đến việc đưa các xu hướng như phát thải trên toàn cầu. Các doanh nghiệp của Ý đã nắm bắt xu hướng cũng như những mục tiêu bền vững của Liên hợp quốc, đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam cần nhìn nhận và chuyển đổi số toàn diện. Đây cũng là một bài toán đòi hỏi cơ quan hữu quan với vai trò quản lý nhà nước, hoạch định cần lời giải để các không doanh nghiệp Việt Nam nào bị bỏ lại phía sau.

Hiếu Bùi

Tài liệu tham khảo:

https://www.mdpi.com/2071-1050/13/21/11831/htm