Tuy nhiên, chuyển đổi số giáo dục không chỉ là dạy và học trực tuyến mà còn nhiều hơn nữa như học bạ điện tử, giáo án điện tử… Để có nhiều thông tin tổng quan về chuyển đổi số lĩnh vực giáo dục, trong bài này sẽ nghiên cứu và giới thiệu về kinh nghiệm chuyển đổi số giáo dục ở Thuỵ Điển – Một quốc gia có nền giáo dục rất phát triển để có thêm kinh nghiệm áp dụng tại Việt Nam.
Thụy Điển là một trong những quốc gia châu Âu có hạ tầng công nghệ thông tin tốt, băng thông kết nối mạng cao và có tỷ lệ sinh viên trên máy tính cao. Chín mươi ba phần trăm người Thụy Điển trong độ tuổi từ 16 đến 85 có khả năng truy cập Internet tại nhà. Thụy Điển là quê hương của một loạt các tập đoàn công nghệ và phần mềm.
Thụy Điển, cùng với Đan Mạch và Phần Lan, là ba quốc gia có nền kinh tế kỹ thuật số tiên tiến hàng đầu theo Chỉ số Kinh tế số và Xã hội Kỹ số theo đánh giá của Ủy ban Châu Âu năm 2019. Đây cũng là điều kiện cơ bản giúp các nước Bắc Âu có vị trí tốt để tận dụng các công nghệ giáo dục mới. Trên bình diện Châu Âu, vào năm 2018, Ủy ban Châu Âu đã đưa ra một kế hoạch hành động giáo dục số thừa nhận tầm quan trọng của việc hỗ trợ việc sử dụng các công nghệ trong giáo dục.
Trong khoảng 150 năm qua, hầu hết các mô hình giáo dục - đặc biệt là liên quan đến trẻ em - hầu như không thay đổi: Một giáo viên hoặc giảng viên đứng trước lớp học giải thích các ý tưởng hoặc giới thiệu bài giảng trong khi học sinh, sinh viên ngồi và lắng nghe. Các tài liệu học tập chủ yếu là sách giáo khoa hoặc bản in, phô tô. Tuy nhiên, giờ đây, các công nghệ kỹ thuật số đang bắt đầu biến đổi các lớp học ngày nay. Ngày càng có nhiều học sinh sử dụng máy tính hoặc máy tính bảng, và giáo viên ngày càng sử dụng màn hình, máy chiếu để minh họa các nội dung của bài giảng. Điều này làm cho bài giảng ngày càng sinh động và cuốn hút học sinh hơn. Sách giáo khoa giấy đang được thay thế bằng các học liệu trực tuyến, tương tác, cập nhật và chuyên sâu hơn, cho phép người học nghiên cứu theo nhu cầu của mình. Đây là những dấu hiệu đầu tiên của việc chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Số hoá và chuyển đổi số trong giáo dục.
Minh họa chuyển đổi số trong giáo dục
Ứng dụng công nghệ thông tin giáo dục là quá trình phát triển liên tục và từng bước phát triển, công nghệ thông tin ngày càng đi sâu hơn vào công tác giáo dục. Ở giai đoạn đầu, chúng ta có thể thấy đó là quá trình số hoá. Ở giai đoạn tiếp theo đó là quá trình chuyển đổi số. Số hoá và chuyển đổi số tuy gần giống nhau nhưng có những sự khác biệt.
Số hoá là quá trình tạo ra các phiên bản kỹ thuật số của các đối tượng, thiết bị vật lý. Ví dụ như bàn phím thay thế bút và giấy hoặc máy tính thay thế tài liệu giấy và sách giáo khoa giấy. Trong giáo dục cũng tương tự như chăm sóc sức khỏe, khi chuyển dữ liệu bệnh nhân sang thẻ y tế kỹ thuật số thì trong giáo dục, có thể chuyển dữ liệu học tập của học sinh, sinh viên hoặc dữ liệu nhập học sang "thẻ" hoặc tệp kỹ thuật số . Như vậy, mặc dù đã ứng dụng các trang thiết bị công nghệ thông tin vào lĩnh vực giáo dục nhưng các thiết bị này góp phần giải quyết các vấn đề cũ trên các thiết bị mới.
Việc triển khai các thiết bị công nghệ thông tin trong giáo dục có thể mở rộng sử dụng để hỗ trợ triển khai các kỳ thi trên máy tính, các buổi thực hành trên máy tính mà trước đây các kỳ thi hoặc buổi thực hành được thực hiện trên giấy và bút. Các phần mềm cũng được triển khai để hỗ trợ cho người quản lý giáo dục thực hiện các hoạt động quản lý tốt hơn. Những hoạt động ứng dụng thiết bị công nghệ thông tin này được thực hiện và cải tiến liên tục theo sự cải tiến tự nhiên của quá trình cải tiến phương pháp dạy và học trong giáo dục, việc số hoá đơn thuần sẽ không thể tạo ra bước ngoặt hoặc tạo nên một cuộc cách mạng trong giáo dục.
Chuyển đổi số thì khác, chuyển đổi số được xem như một cuộc cách mạng có tính chất biến đổi về chất. Khi áp dụng công nghệ kỹ thuật số trong giáo dục hoặc kết hợp các công cụ kỹ thuật số trong giáo dục, cần phải xem xét cơ sở để làm thế nào giáo dục và công nghệ thông tin có thể phục vụ tốt nhất cho người học và người dạy.
Chuyển đổi số phải nêu lên những câu hỏi như: "Công cụ số có khả năng gì giúp cho người dạy và người học mà cách thức truyền thống không có?" và "Làm thế nào công cụ số có thể tăng cường khả năng học tập?" v.v. Để trả lời các câu hỏi này, đầu tiên, trước tiên ta phải luôn lưu ý rằng dù có ứng dụng công nghệ số nhưng quan trọng trong giáo dục vẫn là các phương pháp sư phạm để đào tạo. Để từng bước làm rõ hơn vai trò của chuyển đổi số trong giáo dục, chúng ta sẽ từng bước làm rõ, cụ thể hơn về cách mà công nghệ số hỗ trợ việc giáo dục:
Công nghệ số như một công cụ để chuyển đổi việc dạy và học
Chuyển đổi việc dạy và học không chỉ đến bằng cách đưa công nghệ kỹ thuật số vào môi trường giáo dục. Quá trình chuyển đổi hình thành tùy thuộc vào cách nhìn nhận việc học, giảng dạy và đánh giá. Ví dụ khi văn bản giấy được thay thế bằng màn hình với khả năng cung cấp các thông tin đồng thời qua các con đường thị giác và thính giác đồng thời. Việc chuyển từ văn bản in sang màn hình có khả năng định hình lại nội dung truyền tải và cách tiếp thu kiến thức của người học. Việc sử dụng công nghệ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc học nhưng dần dần tạo ra sự chuyển đổi sâu sắc về cách người học tiếp thu và áp dụng kiến thức của mình thông qua các phương thức và phương tiện truyền thông khác nhau. Tuy nhiên, sự chuyển đổi này không đơn thuần sảy ra chỉ vì việc triển khai các thiết bị công nghệ vào trường học mà nó có sự kết hợp của nhiều yếu tố mới có thể tạo ra sự chuyển đổi. Ví dụ như trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ tăng cường cho học tập...
Ứng dụng AI hỗ trợ giải pháp học tập tăng cường
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo xuất hiện mới gần đây trong lĩnh vực giáo dục đã tạo ra một công cụ đắc lực để hỗ trợ đào tạo như việc xác định những khó khăn trong việc đọc ở trẻ em. Tại thành phố Stockholm, một dự án lớn đã được bắt đầu, trong đó hơn 15.000 học sinh, trải rộng khắp các trường tiểu học của thành phố, sẽ thực hiện các bài kiểm tra sàng lọc mắt để xác định học sinh khuyết tật đọc. Bài kiểm tra hiện đang được cung cấp với chi phí thấp và dự kiến sẽ có hiệu quả về thời gian, vì nó chỉ mất hai phút để mỗi học sinh hoàn thành. Ngay từ năm 2016, bốn trường học ở Stockholm là một phần của nghiên cứu thử nghiệm công cụ AI mới được phát triển với các nhà nghiên cứu từ Viện Karolinska. Công cụ AI mới không phải là một công cụ chẩn đoán có thể xác định nguyên nhân của những khó khăn khi đọc và viết mà thay vào đó, công cụ này xác định những khó khăn trong việc đọc. Học sinh đọc một văn bản ngắn trên màn hình máy tính trong khi chuyển động mắt của họ được ghi lại bằng máy ảnh. Các chuyển động của mắt được hiểu là đại diện cho các quá trình nhận thức trong não, kết quả cho mỗi học sinh được so sánh với một cơ sở dữ liệu lớn có chứa dữ liệu và kết quả được phân tích với sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo. Những học sinh thể hiện chuyển động mắt lệch lạc có thể gặp một số khó khăn về đọc hoặc viết.
Theo cách truyền thống, việc kiểm tra có thể mất nửa ngày cho mỗi học sinh, nhưng công cụ mới sẽ hoàn thành bài kiểm tra trong hai phút cho mỗi học sinh. Khi một học sinh đã được phát hiện có vấn đề với sự trợ giúp của việc sàng lọc, các can thiệp giáo dục đặc biệt có thể được cung cấp với các biện pháp hỗ trợ cụ thể theo nhu cầu của từng học sinh.
Đây chỉ là một ví dụ về sự đổi mới mang tính chuyển đổi ở quy mô tương đối nhỏ trong bối cảnh giáo dục. Sự đổi mới này có tác động có khả năng biến đổi này giúp cắt giảm các cán bộ trong ngành giáo dục phục vụ việc phân loại học sinh cần hỗ trợ dặc biết để tập trung giáo viên vào nghiên cứu triển khai các biện pháp hỗ trợ thay vì tiến hành các công cụ kiểm tra đơn thuần. Việc triển khai giải pháp công nghệ này cũng có thể được thực hiện ở quy mô lớn, nhiều học sinh, giải quyết vấn đề thiếu giáo viên hiện nay trong ngành giáo dục Thụy Điển.
Một ứng dụng khác đối với AI trong bối cảnh giáo dục là sử dụng máy học và phần mềm mạng nơ-ron để đưa ra dự đoán dựa trên điểm số của các học sinh tham gia các bài kiểm tra ngôn ngữ. Một công ty Thụy Điển đã xây dựng một nền tảng dự đoán những lỗi mà học sinh học ngôn ngữ sẽ mắc phải dựa trên các lỗi trước đó và có thể đề xuất chương trình học tập cho từng người học. Những tiến bộ trong dự đoán AI và lộ trình học tập này cung cấp một số thông tin quan trọng và tiềm tăng cho việc cải cách giáo dục. Đồng thời, có một sự khác biệt đáng kể giữa việc học ngôn ngữ thông qua phương tiện điện tử và thực tế.
Kỳ thi kỹ thuật số
Ở Thụy Điển, các kỳ thi ứng dụng công nghệ được sử dụng rộng rãi. Ở dạng đơn giản nhất, các kỳ thi được triển khai dưới hình thức số hóa, theo đó các kỳ thi thông thường được chuyển sang sử dụng và công cụ kỹ thuật số. Các kỳ thi cung cấp một hoặc một số công cụ cho học sinh sử dụng. Các kỳ thi sử dụng công cụ số cũng mang lại cho giáo viên trải nghiệm đơn giản và giảm thời gian chấm và tổng hợp kết quả bài thi từ đó giảm khối lượng công việc của giáo viên.
Trong một nghiên cứu phỏng vấn với 33 giáo viên đại học, các giáo viên cho thấy bằng sử dụng các bài trắc nghiệm trực tuyến đã giúp họ tiết kiệm thời gian và họ cảm thấy áp lực công việc hơn. Việc sử dụng video và mô phỏng cũng được sử dụng như một công nghệ có thể mang lại hiệu quả. Các giải pháp mô phỏng giúp sinh viên có thể tương tác nhiều lần thay vì sử dụng các phòng thí nghiệm với điều kiện hạn chế.
Tại Thụy Điển, các bài kiểm tra quốc gia cho trường trung học và trung học cơ sở sẽ bắt buộc phải được số hóa vào cuối năm 2022. Chính phủ Thuỵ Điển cho rằng việc sử dụng các bài kiểm tra được số hoá sẽ tạo sự công bằng và cung cấp dữ liệu đáng tin cậy. Thông qua số hóa, tất cả học sinh sẽ phải thi cùng một bài kiểm tra.
Bằng việc sử dụng phương tiện số để thực hiện kỳ thi, câu trả lời của học sinh được ẩn danh và được chấm bởi một giáo viên khác với giáo viên đã dạy học sinh. Các cuộc điều tra trước đây cho thấy giáo viên có xu hướng dễ dãi hơn trong việc đánh giá và chấm điểm thi nếu họ dạy học sinh của mình.
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này chỉ có thể giới thiệu một số những đặc điểm khái quát nhất về chuyển đổi số trong giáo dục hiện đang được triển khai trên khắp thế giới. Bài viết cũng cung cấp một số những ví dụ chuyển đổi số cụ thể được áp dụng tại Thuỵ Điển để chúng ta có thêm thông tin về cách tiếp cận cụ thể nhất khi triển khai chuyển đổi số giáo dục. Chuyển đổi số còn rộng và nhiều đặc điểm hơn nữa không thể tổng hợp được hết trong bài này. Trên cơ sở đó, các cơ quan, đơn vị giáo dục tại Việt Nam có thể vận dụng một số những kinh nghiệm tại Thuỵ Điển và trên thế giới để thực thi các hoạt động chuyển đổi số của mình.
Khánh Nguyễn
Tài liệu tham khảo:
- Cormac McGrath và Anna Åkerfeldt; Educational technology (EdTech) Unbounded opportunities or just another brick in the wall?, Digital Transformation and Public Services; First published 2020 by Routledge
- https://magenest.com/en/digitaltransformation-in-education/
- Åkerfeldt, A., 2014a. Didaktisk design med digitala resurser: En studie av kunskapsrepresentationer i en digitaliserad skola [Didactic design with digital resources: a study of representations of knowledge in a digitalised school]. Sweden: Stockholm University. Åkerfeldt, A., 2014b. Reshaping of writing in the digital age: a study of pupils’ writing with different resources. Nordic Journal of Digital Literacy, 9(3), pp. 172–93.
- Bainbridge, D., 2016. Edtech is the next fintech. [online] TechCrunch. Available at: [Accessed 4 Sep. 2018]. Begler, AM. and Bremberg, G., 2012. Lika för alla? Omrättning av nationella prov i grundskolan och gymnasieskolan under tre år [Equal for all? recorrrection of national tests in primary school and high-school during three years]. Stockholm, Sweden: The Swedish Schools Inspectorate.