Đang xử lý.....

Chiến lược cho tổ chức kỹ thuật số: Thử nghiệm công cụ đo lường để chuyển đổi kỹ thuật số  

Sự lãnh đạo và đầu tư chủ động là những yếu tố chính quyết định tiềm năng trở thành một tổ chức kỹ thuật số của một tổ chức. Bài viết dưới dây, giới thiệu một mô hình bốn giai đoạn. Các công ty đang phát triển thông qua giai đoạn đình trệ, bắt đầu, tham gia và tự củng cố. Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để đánh giá mức độ sẵn sàng chuyển đổi số của một tổ chức?
Thứ Ba, 20/12/2022 291
|

Trong môi trường như ngày nay, đổi mới đã trở thành trụ cột của mọi tổ chức. Đổi mới ngày càng trở nên phức tạp do nhu cầu của khách hàng thay đổi, áp lực cạnh tranh lớn và thay đổi công nghệ nhanh chóng. Các tổ chức phải đảm bảo rằng các chiến lược công ty của họ luôn đổi mới để xây dựng và duy trì lợi thế cạnh tranh. Mục đích chính là đánh giá mức độ sẵn sàng chuyển đổi số của tổ chức và đề xuất chiến lược đổi mới cho chuyển đổi số. Các câu hỏi sau đã được các chuyên gia sử dụng:

1. Những mô hình kinh doanh kỹ thuật số nào có thể được triển khai?

2. Có thể sử dụng công cụ nào để đánh giá mức độ sẵn sàng chuyển đổi số của tổ chức?

3. Đâu là chiến lược thành công cho tổ chức kỹ thuật số?

Dưới đây giới thiệu kết quả nghiên cứu thử nghiệm công cụ đo lường chuyển đổi số đối với một tổ chức. Dựa trên công cụ đo lường nhóm chuyên gia quốc tế đã tiến hành thử nghiệm với bộ các câu hỏi tại một công ty tại Serbia.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM

Cơ sở lý luận

“Các tổ chức phải đưa ra quyết định đầu tư nhanh hơn nhiều và thay đổi các quy trình nội bộ của họ, chú trọng nhiều hơn vào các quyết định được cung cấp bởi dữ liệu và phân tích. Việc triển khai các mô hình kinh doanh kỹ thuật số là một nỗ lực phức tạp, nhưng có một số sáng kiến có thể giúp những người đương nhiệm cách mạng hóa hoạt động kinh doanh của chính họ" (Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2016).

Trở thành người đầu tiên trên thị trường, không còn là một sự đảm bảo cho thành công  trong thương mại. Câu hỏi chính là làm thế nào để đổi mới với chi phí thấp hơn và làm thế nào để giữ chân nhân tài. Với sự đổi mới hiệu quả về chi phí, không phải lo lắng về các quỹ bổ sung; quản lý phải tập trung vào sản phẩm, dịch vụ, tiếp thị và khả năng cạnh tranh hơn là tài chính.

Theo Schumpeter, ba giả thuyết chính về mối quan hệ giữa đổi mới và nền kinh tế như sau:

1. Đổi mới, đặc biệt là công nghệ, đã mang lại cho nền kinh tế đặc tính năng động thông qua quá trình "phá hủy sáng tạo". Do những thay đổi công nghệ chính, các ngành công nghiệp mới đã thay thế những ngành cũ.

2. Tiến bộ công nghệ là một trong những nhân tố quan trọng nhất giải thích mức tăng thu nhập quốc dân thực tế bình quân đầu người. Sự thay đổi công nghệ đã tạo cơ hội để tăng năng suất và là nhân tố chính của sự phát triển kinh tế.

3. Khả năng chiếm vị trí độc quyền tạm thời kích thích các bên liên quan phát triển đổi mới công nghệ. Các tổ chức đạt được lợi nhuận ngắn hạn nhưng cực kỳ cao trừ khi đổi mới thành công. Người tiên phong giành được vị trí độc quyền tạm thời thông qua việc tăng giá hoặc năng suất, do đó, nhận ra doanh thu từ tinh thần kinh doanh. Bắt chước giảm giá. Quá trình đổi mới ảnh hưởng đến những thay đổi kinh tế và công nghệ. Nó trái ngược với năng lực cạnh tranh hoàn hảo. Sự đổi mới và các tình huống mất cân bằng tạo ra các thế độc quyền tạm thời.

Bước đầu tiên trong quá trình chuyển đổi kỹ thuật số là phát triển năng lực công nghệ. Để có lợi nhuận, một tổ chức cần có các năng lực công nghệ chưa được sử dụng để khai thác lợi thế kinh tế theo phạm vi thông qua đổi mới.

Cần xác định và phát triển mô hình kinh doanh phù hợp nhất. Phân tích thực tiễn tốt nhất của một số công ty thành công trong chuyển đổi số đã chỉ ra năm mô hình kỹ thuật số: lấy khách hàng làm trung tâm, tiết kiệm, dựa trên dữ liệu, mạng lưới không gian (sky net) và mở, linh hoạt.

Mô hình lấy khách hàng làm trung tâm tập trung vào việc chuyển đổi các quy trình front-office trong các tổ chức có cấu trúc phi tập trung. Nó có thể được áp dụng trong các ngành công nghiệp khác nhau. Trong các tổ chức có cấu trúc chuẩn hóa, mô hình siêu tiết kiệm cung cấp dịch vụ chất lượng cao với chi phí thấp là phù hợp nhất. Mô hình dựa vào dữ liệu sử dụng phần mềm thông minh. Mô hình Sky Net dựa trên trí tuệ nhân tạo để tăng năng suất và tính linh hoạt của tổ chức. Mô hình mở và linh hoạt được đặc trưng bởi đối thoại liên tục với thế giới bên ngoài. Các công ty nổi tiếng nhất đã sử dụng mô hình này là Facebook và PayPal.

Dựa trên các nghiên cứu điển hình có liên quan, các chuyên gia  đã xác định quy trình chuyển đổi số trong một số ngành được lựa chọn bao gồm ba giai đoạn: chỉ ra các sản phẩm và/hoặc dịch vụ hiện có, phân rã mô hình kinh doanh hiện tại và xây dựng mô hình mới.

Các tổ chức thường thất bại trong việc thích nghi với các mô hình kinh doanh mới, bên cạnh thực tế là các nhà quản lý của họ đã không nhận ra các cơ hội công nghệ mới. Do đó, điều quan trọng là phải đánh giá mức độ sẵn sàng của tổ chức cho chuyển đổi số.

Hoàn cảnh môi trường và sự năng động của tổ chức có thể là những phần thiết yếu của khuôn khổ đánh giá mức độ sẵn sàng chuyển đổi số. Thành công của tổ chức phụ thuộc vào cơ cấu ngành. Các yếu tố chính là: sự cạnh tranh, mối đe dọa của sản phẩm thay thế, quyền lực thương lượng của khách hàng, quyền lực thương lượng của nhà cung cấp và mối đe dọa của những người mới tham gia. Các nguồn lực và khả năng của tổ chức có thể là: quy mô hoạt động, dữ liệu, văn hóa hợp tác, tích lũy tri thức và năng lực đổi mới.

Chiến lược, không chỉ công nghệ thúc đẩy các tổ chức chuyển đổi số.

Dựa trên phân tích tài liệu hiện các chuyên gia quốc tế đã xác định bốn yếu tố chính của chiến lược chuyển đổi số: sử dụng công nghệ, thay đổi trong việc tạo ra giá trị, thay đổi cấu trúc và khía cạnh tài chính.

Yếu tố đầu tiên có thể được mô tả là thái độ của các nhà quản lý đối với công nghệ mới và vai trò của công nghệ thông tin trong tổ chức. Để khai thác công nghệ mới thường có nghĩa là một sự thay đổi trong việc tạo ra giá trị. Thay đổi cơ cấu chủ yếu liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động. Giới thiệu công nghệ mới là một khoản đầu tư, do đó các nguồn lực tài chính được gắn kèm.

Làm thế nào các tổ chức đang phát triển trở thành tổ chức kỹ thuật số?

Hành trình trở thành tổ chức kỹ thuật số có thể được mô tả qua bốn giai đoạn chính:

1. Đình trệ - Đặc điểm của các tổ chức trong giai đoạn này là thiếu linh hoạt, không có khả năng chuyển giao kết quả.

2. Bắt đầu - Các tổ chức bắt đầu phát triển khả năng kỹ thuật số thông qua đầu tư vào kiến thức và mối quan hệ mới.

3. Tham gia - Các tổ chức có nhiều khả năng kỹ thuật số khác nhau và phát triển sự hợp tác trong toàn tổ chức.

4. Tự củng cố - Các tổ chức này rất linh hoạt, có thể tiến hành tổ chức lại và/hoặc tự tổ chức nhanh chóng.

Sự lãnh đạo và đầu tư chủ động là những yếu tố chính quyết định tiềm năng trở thành một tổ chức kỹ thuật số của một công ty. Bốn yếu tố chính là: tư duy digital first, thực hành số hóa, tài năng được trao quyền, truy cập dữ liệu và các công cụ cộng tác.

 

Hình 1. Các yếu tố chính để trở thành một tổ chức kỹ thuật số

Bước đầu tiên trong việc xây dựng tư duy số là giải thích lợi ích của việc chuyển đổi số cho các bên liên quan chính. Giai đoạn tiếp theo của người lãnh đạo là trở thành mô hình cho nhân viên, sau đó giới thiệu các phần thưởng bằng tiền cũng như phi tiền tệ để khuyến khích chuyển đổi số. Như có thể thấy trong Hình 1, tài năng được trao quyền bắt đầu bằng việc phát triển các kỹ năng số. Bước đầu tiên là xác định các yêu cầu về kỹ năng trong tương lai do nhóm nhân sự và công nghệ thông tin thực hiện. Sau đó, họ thực hiện phân tích khoảng cách giữa các kỹ năng mong muốn và hiện tại của nhân viên. Bước tiếp theo là khắc phục khoảng cách, tiếp theo là phát triển hệ thống giám sát. Các kỹ năng số cần thiết là phân tích dữ liệu, sử dụng mạng xã hội và thiết bị di động.

Một nghiên cứu đối với 400 công ty lớn và tiết lộ rằng hầu hết các công ty được quan sát đã sử dụng phương tiện truyền thông xã hội để thực hiện nhiều thay đổi khác nhau như nhu cầu của khách hàng, quy trình nội bộ và mô hình kinh doanh.

Công cụ đo lường và kết quả đo thử nghiệm

Có nhiều công cụ khác nhau có thể được sử dụng để đánh giá mức độ chuyển đổi số. Kết nghiên cứu trong bài viết này được các chuyên gia quốc tế sử dụng công cụ tự đánh giá được phát triển bởi MIT Sloan Management và Capgemini Consulting. Bảng câu hỏi bao gồm 32 câu hỏi để đánh giá giai đoạn của tổ chức trong một mô hình. Bảng câu hỏi được phát cho 30 nhà quản lý trong một công ty đại chúng tại Serbia,. Tất cả họ đều điền vào bảng câu hỏi do những người trong cuộc khảo sát.

Những người được hỏi được yêu cầu cho biết quan điểm hiện tại của họ về các yếu tố nội bộ trong tổ chức của họ trên thang điểm từ 1 - rất không đồng ý, đến 5 - rất đồng ý:

+ 10-20.5 giai đoạn đình trệ

+ 20.5-30.5 giai đoạn bắt đầu

+ 30.5-40.5 giai đoạn tham gia

+ 40.5-50 giai đoạn tự củng cố.

Kết quả đánh giá tổ chức:

Nhân tố

Điểm trung bình

Tư duy digital first

3,17

Thực tiễn: số hoá các hoạt động

3,51

Thực tiễn: ra quyết định dựa trên dữ liệu

3,42

Thực tiễn: học tập cộng tác

2,82

Thực tiễn

3,25

Tài năng được trao quyền: trải nghiệm công nghệ

2,82

Tài năng: kỹ năng số

3,53

Tài năng: mức độ tham gia cao

3,3

Tài năng

3,27

Công cụ cộng tác và truy cập dữ liệu: được phát triển

3,75

Công cụ cộng tác và truy cập dữ liệu: dữ liệu khách hàng thời gian thực

3,8

Công cụ cộng tác và truy cập dữ liệu: dữ liệu được tích hợp

3,57

Công cụ cộng tác và truy cập dữ liệu

3,71

Tổng

33,67

Dựa trên hướng dẫn tự đánh giá, tổ chức đang ở giai đoạn Tham gia (33,67/50). Tổ chức đã phát triển kinh nghiệm về tư duy, thực tiễn, tài năng và ưu tiên kỹ thuật số. Trong giai đoạn phát triển này, Tổ chức đã sử dụng công nghệ để chuẩn hóa hoạt động kinh doanh.

Phân tích các yếu tố chính cho thấy điểm trung bình trên mỗi yếu tố có công cụ cộng tác và truy cập dữ liệu (3,71), tiếp theo là tài năng (3,27), thực tiễn (3,25) và tư duy ưu tiên kỹ thuật số (3,17). Các lĩnh vực tiềm năng để cải thiện là: 1. Học tập hợp tác trong Tổ chức (điểm trung bình mỗi yếu tố thấp nhất là 2,81) và 2. Trải nghiệm công nghệ của nhân viên (điểm trung bình mỗi yếu tố là 2,82).

KẾT LUẬN

Theo các chuyên gia, trong giai đoạn gắn kết, quá trình chuyển đổi tổ chức đang diễn ra. Do đó, kinh nghiệm của tổ chức ngày càng lớn. Những đặc điểm này xác định chiến lược kỹ thuật số tập trung vào hiệu quả hoạt động trong dữ liệu khách hàng và/hoặc để cải thiện các công cụ cộng tác.

Ban lãnh đạo của Tổ chức có thể triển khai mô hình hoạt động dựa trên dữ liệu được xây dựng xung quanh các quy trình trong phân tích và phần mềm thông minh. Các tổ chức sử dụng dữ liệu có văn hóa tổ chức linh hoạt với mục tiêu chính là đổi mới thông qua thử nghiệm thực nghiệm. Thành công của mô hình này được đo bằng lợi tức đầu tư. Để các tổ chức sẵn sàng sử dụng kỹ thuật số, ba hoạt động cần thiết là: nâng cấp, dẫn dắt và thu hút.

Các yếu tố chính quyết định tiềm năng trở thành một tổ chức kỹ thuật số của một tổ chức là khả năng lãnh đạo và đầu tư chủ động. Hơn nữa, dựa trên kết quả điều tra bốn yếu tố chính gồm tư duy ưu tiên kỹ thuật số, thực hành số hóa, tài năng được trao quyền, truy cập dữ liệu và các công cụ cộng tác để kết luận một tổ chức đang ở giai đoạn nào của quá trình chuyển đổi số.

Kinh nghiệm đo lường chuyển đổi số trên cũng là một khía cạnh đo lường, các cơ quan, tổ chức có thể tham khảo trong công tác nghiên cứu, xây dựng công cụ đo lường kỹ thuật số cho các tổ chức, doanh nghiệp.

Nguyễn Thanh Thảo

Nguồn:

  • Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2016;
  • Government of Vojvodina Novi Sad, Serbia;