Key words: eID, chứng minh thư điện tử, mã công dân điện tử, chứng minh nhân dân điện tử
GIỚI THIỆU
Việt Nam đang từng bước xây dựng chính phủ điện tử đưa công nghệ thông tin vào cải cách hành chính và tin học hoá nghiệp vụ hỗ trợ hoạt động của các cơ quan nhà nước. Một trong những chủ trương của Chính phủ điện tử là thúc đẩy xây dựng dịch vụ công cấp cao cho phép người dân có thể thực hiện các giao dịch hành chính công trực tuyến qua Mạng. Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là định danh và xác thực công dân trong các giao dịch công trực tuyến khi mà phương thức nhận dạng bằng con người không thể thực hiện như phương thức truyền thống. Chính vì vậy đòi hỏi phải có giải pháp định danh điện tử phù hợp để định danh công dân tham gia vào các dịch vụ công trực tuyến. Người ta gọi là chứng minh nhân dân điện tử. Nhiều nước hiện nay trên thế giới triển khai sử dụng mã công dân trong các giao dịch điện tử đồng thời tích hợp chuyển đổi chứng minh nhân dân truyền thống thành chứng minh nhân dân điện tửđang được thực hiện mạnh mẽ. Chứng minh nhân dân điện tử là một thành phần không thể thiếu thực hiện giao dịch điện tử trong Chính phủ điện tử cấp độ cao. Một số tổ chức như Liên minh Châu âu đã thực hiện kế hoạch phát hành chứng minh nhân dân điện tử cho toàn bộ công dân Châu âu để thực hiện quản lý và sử dụng thống nhất. Các nước trong liên minh có thể sử dụng chung nhau.
Hiện nay, Bộ Công an đang thực hiện dự án xây dựng xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đồng thời với việc triển khai đổi mới việc quản lý và cấp chứng minh nhân dân theo hướng điện tử hóa. Vì vậy, xác định một phương án xây dựng chứng minh nhân dân điện tử là cần thiết và phù hợp với tình hình hiện tại.
Trong khuôn khổ báo này, mặc dù chưa thể đưa ra một giải pháp cụ thể cho việc xây dựng chứng minh nhân dân nhưng chúng tôi mong muốn cung cấp một số thông tin cơ bản về bản chất chứng minh nhân dân điện tử và các vấn đề cần quan tâm khi triển khai chứng minh nhân dân điện tử góp phần định hình những vấn đề cần phải giải quyết khi áp dụng chứng minh nhân dân điện tử ở Việt Nam.
ĐỊNH DANH ĐIỆN TỬ VÀ CHỨNG MINH NHÂN DÂN ĐIỆN TỬ
Định danh: Là tập hợp các thuộc tính riêng lẻ để phân biệt giữa cá nhân với nhau. Theo quy ước, định danh là duy nhất đối với mỗi cá nhân. Tập định danh này được xác định để tạo nên một mã công dân duy nhất cho mỗi cá nhân. Ví dụ: tập định danh có thể bao gồm các thuộc tính của một cá nhân như ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi sinh và số thứ tự sinh của người đó trong những người sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm và cùng nơi sinh. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng mã công dân trên cơ sở xác định, lựa chọn tập các thuộc tính định danh này.
Số chứng minh nhân dân: Số chứng minh nhân dân (một số quốc gia gọi là mã số định danh công dân …) là số duy nhất số được sử dụng bởi chính phủ các nước để làm công cụ quản lý công dân bao gồm công dân có quốc tịch hoặc người nước ngoài nhập cảnh tạm thời. Số chứng minh nhân dân được sử dụng trong các mục đích liên quan đến quản lý công việc, thuế, lợi ích xã hội, chăm sóc sức khỏe và các chức năng liên quan. Con số này là duy nhất nhằm xác định một công dân cụ thể.
Cách thức sử dụng số chứng minh nhân dân phụ thuộc vào từng quốc gia khác nhau, trong hầu hết các trường hợp số chứng minh nhân dân được cấp khi sinh hoặc ở độ tuổi trưởng thành (theo pháp luật thường là 18 tuổi). Đối với người nước ngoài nhập cảnh, Không phải tất cả các công dân đều được cấp mã số khi họ nhập cảnh.
Nhiều quốc gia sử dụng mã gán cho người sử dụng phục vụ duy nhất một mục đích, tuy nhiên qua thời gian, số này trở thành số chứng minh nhân dân, ví dụ: Ở Mỹ, ban đầu được phát triển một số an sinh xã hội để phục vụ quản lý lợi ích an sinh xã hội của công dân. Tuy nhiên qua thời gian con số này được sử dụng cho nhiều mục đích thiết yếu khác như sử dụng làm tài khoản ngân hàng, thẻ tín dụng hoặc giấy phép lái xe.
Chứng minh nhân dân điện tử: Theo định nghĩa được sử dụng trong các tài liệu thuộc chương trình IDABC của Ủy ban Châu Âu về xây dựng một nền tảng định danh điện tử trong giao dịch điện tử chung của Châu Âu thì Mã định danh điện tử là thể hiện dưới dạng điện tử của một tập con có một hoặc nhiều thuộc tính của một cá nhân. Trong khi mỗi cá nhân chỉ có một định danh thì có thể có nhiều mã đinh danh điện tử. Mã định danh điện tử có thể có nhiều hình thức và lưu trữ trên nhiều vật mang tin. Tuy nhiên, mã định danh điện tử có khái niệm rộng và được sử dụng trong các giao dịch điện tử khác nhau của các tổ chức, cá nhân. Chứng minh nhân dân điện tử là một trường hợp của mã định danh điện tử trong đó mã định danh điện tử có chứa mã công dân và phục vụ mục đích sử dụng trong các giao dịch điện tử rộng rãi bao gồm cả giao dịch với chính phủ trong chính phủ điện tử và giao dịch với các tổ chức khác. Mã công dân điện tử là duy nhất đối với mỗi công dân.
Thẻ chứng minh nhân dân điện tử: Thẻ chứng minh nhân dân điện tử như một thẻ chứng minh nhân dân truyền thống được làm bằng chất liệu phù hợp và tích hợp các phương tiện mang tin như chíp nhớ, băng từ để lưu trữ chứng minh nhân dân điện tử. Thẻ chứng minh nhân dân điện tử được sử dụng trong các giao dịch với các cơ quan nhà nước trong đó có sự trợ giúp của hệ thống thông tin.
Định danh, số chứng minh nhân dân, chứng minh nhân dân điện tử, thẻ chứng minh nhân dân điện tử là những khái niệm liên quan chặt chẽ với nhau. Số chứng minh nhân dân được sinh ra trên cơ sở định danh. Số chứng minh nhân dân là yếu tố cơ bản cần có để thiết lập nên chứng minh nhân dân điện tử. Và thẻ chứng minh nhân dân điện tử là một thể hiện cụ thể của chứng minh nhân dân điện tử, một phương tiện hỗ trợ thực hiện các giao dịch có sử dụng chứng minh nhân dân điện tử.
(Còn nữa)
TS. Hồ Sỹ Lợi, ThS. Nguyễn Trọng Khánh, Cục Ứng dụng CNTT