Về ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) để công bố, công khai thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành
Cổng thông tin điện tử (TTĐT) tỉnh duy trì hoạt động ổn định, thường xuyên cập nhật tin, bài, văn bản chỉ đạo điều hành của Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh: Tính đến 31/5/2020, số lượng văn bản chỉ đạo, điều hành được cập nhật trên Cổng TTĐT của tỉnh: 3.621 văn bản; số lượng tin, bài: 1.152 tin, bài.
Trang thông tin điện tử thành phần của các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố cung cấp đầy đủ thông tin về thông tin chỉ đạo, điều hành, thủ tục hành chính (TTHC), thông tin về quy hoạch, kế hoạch, dự án: Tính đến 31/5/2020, số lượng văn bản chỉ đạo, điều hành cập nhật trên Trang TTĐT của các sở, ban, ngành và UBND các huyện thành phố là 3.300 văn bản; số lượng tin, bài khoảng 1.750 tin, bài.
Cổng thông tin điện tử của tỉnh được liên kết với Cổng dịch vụ công và hệ thống thông tin một cửa điện tử tỉnh, bảo đảm cho việc công khai thông tin về TTHC, quá trình xử lý và kết quả giải quyết hồ sơ TTHC tại các cơ quan Nhà nước.
Về cung cấp DVCTT phục vụ người dân và doanh nghiệp
Cổng dịch vụ công và hệ thống thông tin một cửa điện tử triển khai tập trung thống nhất trong toàn tỉnh gồm: 228 cơ quan, đơn vị, trong đó có 17 sở, ngành; 11 huyện, thành phố; 200 xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, còn tích hợp DVCTT của Kho bạc Nhà nước và Điện lực Lạng Sơn để phục vụ người dân và doanh nghiệp. Hiện tại, Cổng dịch vụ công và hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh cung cấp 1.782 TTHC thực hiện DVCTT, trong đó có 720 DVCTT mức độ 2, 499 DVCTT mức độ 3 và 563 DVCTT mức độ 4. Từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/5/2020, toàn tỉnh tiếp nhận 19.569 hồ sơ, đã giải quyết 15.799 hồ sơ, số hồ sơ còn lại đang trong quá trình xử lý. Hồ sơ tiếp nhận trực tuyến mức độ 3, 4 là 2.427 hồ sơ, đạt 12,4%.
Ứng dụng CNTT trong hoạt động nội bộ
- Hệ thống quản lý văn bản và điều hành (VNPT-iOffice)
Hệ thống quản lý văn bản và điều hành đã triển khai tới 100% cơ quan hành chính Nhà nước ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã. Các cơ quan Nhà nước xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng qua Hệ thống quản lý văn bản và điều hành, đồng thời thực hiện ký số văn bản điện tử, liên thông gửi lên trục liên thông:
Tỷ lệ văn bản trao đổi giữa các cơ quan Nhà nước của tỉnh hoàn toàn dưới dạng điện tử đạt trên 95% (trừ văn bản mật; Hệ thống QLVBĐH được liên thông 4 cấp, thống kê tại Văn phòng UBND tỉnh tính đến 31/5/2020 số văn bản điện tử gửi đi có ký số là 6.046 văn bản; số lượng văn bản gửi liên thông có ký số đến VPCP là 158 văn bản, số lượng văn bản gửi đi các bộ, ngành có ký số là 661 văn bản.
- Hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến
Hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến của tỉnh hiện có 213 điểm cầu, trong đó cấp tỉnh 02 điểm cầu tại UBND tỉnh và Sở Thông tin và Truyền thông, cấp huyện 11 điểm cầu, cấp xã 200 điểm cầu. Hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến của tỉnh hoạt động ổn định, hiệu quả: đến ngày 31/5/2020, toàn tỉnh có 64 cuộc họp trực tuyến. Tỷ lệ các cuộc họp được thực hiện thông qua hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến chiếm khoảng 30% trên tổng số các cuộc họp, tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại khoảng 1,5 tỷ đồng.
- Triển khai chứng thư số, chữ ký số
Đến thời điểm hiện tại đã cấp 1.297 chữ ký số cho tổ chức và cá nhân sử dụng Hệ thống quản lý văn bản và điều hành trên địa bàn toàn tỉnh.
- Hệ thống thư điện tử công vụ của tỉnh
Đến ngày 15/6/2020, số tài khoản thư điện tử đã cấp là 14.411 tài khoản. Hệ thống thư điện tử công vụ được duy trì hoạt động ổn định, 100% cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước đều được cấp hộp thư điện tử công vụ trong trao đổi công việc, mở rộng đến các đơn vị sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội.
Về triển khai các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu
- Duy trì, cập nhật Khung chính quyền điện tử tỉnh 2.0 bảo đảm phù hợp với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam.
- Hoàn thành xây dựng nền tảng tích hợp, chia sẻ cấp tỉnh (LGSP) và kết nối thử nghiệm thành công cơ sở dữ liệu (CSDL) hộ tịch, CSDL cấp phiếu lý lịch tư pháp, CSDL cấp mã số ngân sách, CSDL đăng ký doanh nghiệp từ bộ, ngành trung ương với CSDL của tỉnh qua Trục LGSP của tỉnh; đang triển khai kết nối CSDL ngân sách nhà nước qua Trục liên thông tích hợp, chia sẻ dữ liệu (LGSP) để công khai ngân sách nhà nước trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh;
dự kiến trong thời gian tới sẽ chính thức liên thông để các sở, ngành chỉ thực hiện thống nhất trên một hệ thống phần mềm.
- Triển khai tích hợp, đồng bộ dữ liệu TTHC trên Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh với Cổng Dịch vụ công quốc gia. Cổng dịch vụ công và hệ thống một cửa điện tử tỉnh đã được kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia để thực hiện liên thông đối với 10 dịch vụ. Hiện đã triển khai dịch vụ thanh toán trực tuyến khi thực hiện DVCTT mức độ 4 trên Cổng dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh.
- Xây dựng CSDL, số hóa tài liệu tại Lưu trữ lịch sử tỉnh để bảo quản an toàn và tổ chức khai thác, sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ điện tử hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước, tích hợp vào CSDL lưu trữ số quốc gia giai đoạn 2020 - 2030.
- Xây dựng CSDL thu - chi ngân sách phục vụ công tác tổng hợp quyết toán bảo đảm nhanh chóng, chính xác, đồng bộ, thống nhất trên toàn địa bàn toàn tỉnh.
- Xây dựng hệ thống CSDL tài nguyên nước, khoáng sản tỉnh Lạng Sơn để hỗ trợ công tác quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh. Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin, tư liệu tài nguyên và môi trường tỉnh Lạng Sơn.
- Hoàn thành xây dựng CSDL địa chính Elis phục vụ quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- 100% các cơ sở bán lẻ thuốc trên địa bàn tỉnh đã kết nối, liên thông dữ liệu với hệ thống “Cơ sở dữ liệu Dược quốc gia”.
- Một số phần mềm ứng dụng chuyên ngành tại các cơ quan, đơn vị hoạt động hiệu quả như ngành Giáo dục và Đào tạo, ngành Y tế, ngành Tài chính, ngành Tài nguyên và Môi trường, ngành Tư pháp...
Về hạ tầng kỹ thuật CNTT
Mạng viễn thông của tỉnh đã kết nối thông suốt từ tỉnh đến các huyện, thành phố và các xã, phường, thị trấn, bảo đảm tốt công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan Đảng, Nhà nước; đáp ứng nhu cầu ứng dụng và phát triển CNTT của người dân, doanh nghiệp. Hiện nay, toàn tỉnh Lạng Sơn có tổng số trạm BTS là 2.537 trạm (trong đó 2G, 3G: 1.874 trạm, 4G: 663 trạm). 100% số xã có sóng di động 2G và 100% thị trấn, thành phố có sóng di động 3G, mạng internet băng rộng cáp quang triển khai đến 200/200 xã, phường, thị trấn.
Hạ tầng kỹ thuật CNTT trong các cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp xã cơ bản đáp ứng yêu cầu, 100% các cơ quan, đơn vị có kết nối internet tốc độ cao và hệ thống mạng LAN được hoàn thiện; tỷ lệ máy tính/cán bộ, công chức của các cơ quan, đơn vị khối hành chính đạt 98,4%. Trong đó, cấp sở ngành đạt 100%; cấp huyện đạt 100%; cấp xã đạt 95,3%.
100% các cơ quan, đơn vị được triển khai, kết nối vào mạng truyền số liệu chuyên dùng để ứng dụng cho hoạt động của Hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến.
Trung tâm tích hợp dữ liệu của tỉnh được đầu tư nâng cấp và duy trì hoạt động thường xuyên phục vụ: quản lý hệ thống thư điện tử công vụ của tỉnh, hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến, lưu trữ dữ liệu dịch vụ công trực tuyến và một cửa điện tử của tỉnh, hệ thống phần mềm lưu trữ tài liệu lịch sử tỉnh, hệ thống phần mềm cơ sở dữ liệu công chứng, hệ thống giám sát an toàn mạng thông tin, trang thông tin điện tử của các cơ quan và một số ứng dụng dung chung, ứng dụng chuyên ngành khác.
Nguồn nhân lực
Tỉnh Lạng Sơn hiện có 73 cán bộ, công chức, viên chức chuyên trách, kiêm nhiệm trong lĩnh vực CNTT tại các cơ quan nhà nước, trong đó có 3 cán bộ có trình độ thạc sĩ, 65 cán bộ có trình độ đại học, 04 cán bộ trình độ cao đẳng, 01 cán bộ trình độ trung cấp. Số cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm về CNTT tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh là 51 cán bộ. Số cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm tại UBND các huyện, thành phố là 22 cán bộ.
Trong 6 tháng đầu năm 2020, tổ chức 11 lớp tập huấn sử dụng phần mềm dịch vụ công và hệ thống thông tin một cửa điện tử cho khoảng 1.500 cán bộ, công chức cấp xã.
Công tác bảo đảm an toàn, thông tin mạng
Tiếp tục triển khai các nhiệm vụ, giải pháp bảo đảm an toàn thông tin theo Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 25/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc nâng cao năng lực phòng, chống phần mềm độc hại. Hiện nay, đang triển khai trang bị phần mềm chống virus bản quyền cài đặt trên máy tính cho cán bộ, công chức trong các cơ quan, đơn vị và triển khai hệ thống giám sát mã độc tập trung để bảo đảm an toàn, an ninh mạng đối với các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu của tỉnh.
Bên cạnh đó UBND tỉnh Lạng Sơn cũng đã kịp thời ban hành các văn bản trọng tâm nhằm chỉ đạo, điều hành cũng như triển khai xây dựng chính quyền điện tử hiệu quả.
Như vậy, đến nay nhiệm vụ xây dựng chính quyền điện tử, hiện đại hóa nền hành chính trên địa bàn tỉnh đã đạt một số thành công bước đầu, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và cải cách hành chính, làm cho hoạt động của cơ quan nhà nước được công khai, minh bạch, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp: Chỉ số sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (ICT-index) hằng năm đều tăng. Năm 2018 xếp thứ 32/63 tỉnh, thành phố; năm 2019 xếp thứ 22/63 tỉnh, thành phố). Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2020, khi phải thực hiện các biện pháp cách lý xã hội để phòng chống dịch COVID-19, việc ứng dụng CNTT đã giúp duy trì hoạt động ổn định của các cơ quan nhà nước. Một số hoạt động sinh hoạt của người dân cũng được diễn ra liên tục, thường xuyên nhờ ứng dụng những giải pháp về CNTT như ứng dụng dạy học trực tuyến, giải quyết thủ tục hành chính qua DVCTT...
Bên cạnh các kết quả đã đạt được, Ban Chỉ đạo cũng đã chỉ ra một số hạn chế như:
Việc tham mưu ban hành các quy định, quy chế trong triển khai xây dựng chính quyền điện tử đôi khi còn chưa kịp thời.
Thiếu nguồn nhân lực phục vụ quản trị, vận hành, khai thác các hệ thống thông tin đã được đầu tư.
Hệ thống quản lý văn bản và điều hành còn một số hạn chế chưa được giải quyết dứt điểm, có phần gây ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo, điều hành, tác nghiệp của cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
Cổng DVCTT chưa tích hợp với hệ thống quản lý và điều hành văn bản VNPT-iOffice; dữ liệu thống kê trên hệ thống chưa khớp với số liệu thực tế do còn tình trạng đã xử lý, trả kết quả hồ sơ bản giấy nhưng chưa cập nhật kịp thời trên hệ thống.
Tỷ lệ người dân sử dụng DVCTT mức độ 3, 4 còn thấp, chưa phát huy được tối đa tiện ích của hệ thống đã được đầu tư...
Nguyên nhân dẫn tới hạn chế là do:
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về CNTT chưa đầy đủ, đồng bộ; các văn bản hướng dẫn của cấp trên đôi lúc còn chưa cụ thể, chưa phù hợp với tình hình thực tế.
Công tác tuyên truyền về thực hiện CQĐT trong các cơ quan, đơn vị và đến người dân và doanh nghiệp chưa được thường xuyên, hiệu quả chưa cao.
Kinh phí cho đầu tư ứng dụng và phát triển CNTT chưa đáp ứng được
nhu cầu thực tế.
Đa số người dân và doanh nghiệp chưa quen với việc ứng dụng CNTT trong việc đăng ký trực tuyến, còn có tâm lý e ngại khi gửi và nhận kết quả giải quyết TTHC qua DVCTT.
Một số máy vi tính tại các cơ quan, đơn vị được đầu tư từ lâu đã hết khấu hao, cấu hình thấp, thường xuyên hỏng hóc, không đáp ứng được yêu cầu trong quá trình xử lý công việc trên một số phần mềm Micorosoft Office.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, Ban chỉ đạo đã đưa ra kế hoạch thực hiện 6 tháng cuối năm 2020 như sau:
Ban hành Kế hoạch số hóa kết quả giải quyết TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh; Ban hành Quyết định danh mục dữ liệu mở của cơ quan nhà nước, tổ chức xây dựng kế hoạch và triển khai công bố dữ liệu mở của cơ quan nhà nước tỉnh Lạng Sơn; xây dựng Kế hoạch thực hiện Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo Đề án xây dựng chính quyền điện tử tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2019 - 2025, trong đó tập trung hoàn thành một số nhiệm vụ như hoàn thành xây dựng CSDL cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh; triển khai xây dựng Trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh và thí điểm triển khai một số dịch vụ thông minh trên địa bàn thành phố Lạng Sơn; khắc phục dứt điểm những hạn chế của Hệ thống quản lý văn bản và điều hành, tích hợp, liên thông, đồng bộ với Cổng DVCTT của tỉnh; triển khai hệ thống thông tin báo cáo.
Bảo đảm an toàn các hệ thống thông tin, CSDL của tỉnh. Bảo đảm an toàn, bảo mật trong trao đổi dữ liệu điện tử trên môi trường mạng. Đẩy mạnh ứng dụng chữ ký số trong các cơ quan nhà nước, tích hợp vào điện thoại thông minh, máy tính bảng, trên các hệ thống thông tin của tỉnh.
Các cơ quan, đơn vị tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng Hệ thống quản lý văn bản và điều hành, thực hiện ký số và xử lý văn bản trên môi trường mạng; tăng cường sử dụng hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến; tuyên truyền, hướng dẫn người dân và doanh nghiệp sử dụng DVCTT. Rà soát, có kế hoạch nâng cấp máy tính cấu hình thấp để bảo đảm việc ứng dụng hệ thống quản lý văn bản và điều hành trong xử lý công việc và các phần mềm ứng dụng khác.
Tổ chức đào tạo, tập huấn về công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng cho cán bộ, công chức kiêm nhiệm và chuyên trách CNTT tại các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố. Mở các lớp tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức trong việc sử dụng các phần mềm, các hệ thống thông tin dùng chung đã hoàn thành triển khai xây dựng.
Các sở, ban, ngành và UBND các huyện thành phố rà soát, lựa chọn một số TTHC đơn giản, dễ thực hiện được trên môi trường mạng để tập trung các giải pháp về con người, về tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ,… để giúp người dân và doanh nghiệp tạo được thói quen thực hiện TTHC qua dịch vụ công trực tuyến. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp sử dụng DVCTT bằng nhiều hình thức như tuyên truyền trên sóng phát thanh, truyền hình, báo địa phương, Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Fanpage trên mạng xã hội Facebook, qua tin nhắn đến các số điện thoại di động, mạng Zalo, thư điện tử công vụ...
Nâng cao chất lượng dạy và học môn tin học trong các nhà trường, các trung tâm đào tạo. Có cơ chế khuyến khích các em học sinh đang theo học chuyên ngành CNTT tại tỉnh trong thời gian nghỉ hè xung kích tình nguyện hỗ trợ người dân, doanh nghiệp thực hiện nộp hồ sơ TTHC tại Trung tâm phục vụ hành chính công.
Nguyễn Hạnh