Tháng 6/2021, Nhật Bản công bố “Chiến lược dữ liệu quốc gia” là chiến lược dữ liệu toàn diện đầu tiên của Nhật Bản, xác định mục tiêu “Thông qua việc bảo đảm sự tin tưởng và lợi ích công cộng, xây dựng khung cấu trúc để sử dụng dữ liệu an toàn và hiệu quả; đảm bảo sự tin tưởng vào bản thân dữ liệu cũng như phương pháp tạo, lưu thông dữ liệu của Nhật Bản trên phạm vi toàn thế giới; xây dựng một xã hội mà thế giới có thể yên tâm lưu trữ dữ liệu tại Nhật Bản”.
Nhật Bản đã tiến hành nhiều biện pháp để thúc đẩy phát triển Chính phủ điện tử, bao gồm việc cải thiện hệ thống công nghệ thông tin trong các cơ quan Chính phủ, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến cho công dân và doanh nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan Chính phủ.
Nhật Bản là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm Xã hội 5.0 (Society 5.0) xuất phát từ những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, nhu cầu về sản xuất lương thực và các sản phẩm tiêu dùng phục vụ cho sự gia tăng dân số trên toàn cầu, cùng với những vấn đề kinh tế và xã hội mà nước Nhật đang phải đối mặt như: sự cạnh tranh kinh tế trên toàn cầu, xã hội “siêu” già hóa với hơn 100.000 người trên 100 tuổi trong tổng số 120 triệu người với gánh nặng chăm sóc y tế ngày càng tăng, dân số trẻ sụt giảm dẫn đến việc thiếu nguồn lao động, đặc biệt là lao động trong những lĩnh vực có mức độ sáng tạo thấp…
Xã hội 1.0 là xã hội mà cuộc sống còn đơn sơ dựa trên việc săn bắn, hái lượm.
Xã hội 2.0 là xã hội dựa trên việc trồng trọt, chăn nuôi.
Xã hội 3.0 là xã hội công nghiệp thừa hưởng sự thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai.
Xã hội 4.0 là xã hội thông tin nơi mà chúng ta chứng kiến sự ra đời và sự phổ biến của máy tính, internet và số hóa. Đây cũng là thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba.
Xã hội 5.0 là “Innovation Society” nhờ có nhiều những giải pháp thông minh cho con người, lấy người dân làm trung tâm. Xã hội 5.0 đến từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với sự phát triển của công nghệ IoT, AI, Dữ liệu lớn, 3D Printing, Blockchain,… Một xã hội lấy người dân làm trung tâm, tạo ra giá trị mới thông qua một hệ thống tích hợp cao không gian thực và không gian mạng (hay còn gọi là song sinh kỹ thuật số).
Nhật Bản được xếp hạng thứ 14 trong Khảo sát Chính phủ điện tử định kỳ hai năm của Liên Hợp quốc năm 2022.
Chiến lược dữ liệu quốc gia của Nhật Bản phân tích các khía cạnh về:
1- Khung pháp lý về dữ liệu.
2- Chiến lược dữ liệu.
3- Kết nối, trao đổi và chia sẻ dữ liệu.
4- Dịch vụ công.
5 Các chỉ số báo cáo, thống kê kinh tế - xã hội.
6- Dữ liệu mở.
7- Thị trường dữ liệu.
Khung pháp lý về dữ liệu
Luật Bảo vệ thông tin cá nhân (The Act on the Protection of Personal Information APPI): Năm 2003, Nhật Bản ban hành Luật Bảo vệ thông tin cá nhân và có hiệu lực từ ngày 01/4/2004. Luật Bảo vệ thông tin cá nhân bao gồm 6 Chương, được chia làm hai phần:
- Từ Chương 1 đến Chương 3 quy định các nguyên tắc cơ bản, bao gồm cả khu vực công và tư nhân.
- Từ Chương 4 đến Chương 6 quy định các nghĩa vụ chung về bảo vệ thông tin cá nhân trong khu vực tư nhân.
Tháng 5/2017, Luật Bảo vệ thông tin cá nhân sửa đổi của Nhật Bản APPI 2017 chính thức có hiệu lực. Bên cạnh việc bổ sung một Chương riêng để quy định về cơ quan bảo vệ dữ liệu cá nhân, APPI 2017 cũng có một số quy định mới, cụ thể:
- Quy định cụ thể hơn về dữ liệu nhạy cảm.
- Hướng dẫn chi tiết hơn về phương thức bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Thành lập một cơ quan độc lập để thực thi pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Theo APPI 2017, Ủy ban Bảo vệ thông tin cá nhân (Personal Information Protection Commission PPC) được thành lập. PPC là cơ quan bảo vệ dữ liệu cấp Trung ương chịu trách nhiệm cho việc thi hành, điều tra xử lý các vấn đề liên quan đến dữ liệu cá nhân. Ngoài ra, PPC còn chịu trách nhiệm cho việc ban hành hướng dẫn tuân thủ APPI. Sự ra đời của bộ hướng dẫn từ PPC đã tạo ra sự thống nhất cao, tránh tình trạng hướng dẫn nằm phân tán, rải rác trong quy định tại các cơ quan khác nhau. Đây được xem là bước tiến đáng chú ý nhất của Nhật Bản khi thành lập một cơ quan chuyên trách, độc lập, chuyên điều tra, xử lý các vấn đề liên quan đến dữ liệu cá nhân.
- Tạo ra khuôn khổ pháp lý để thúc đẩy việc sử dụng dữ liệu cá nhân.
- Mở rộng các điều khoản phạt.
Luật Bảo vệ thông tin cá nhân cơ bản thúc đẩy dữ liệu công - tư và làm rõ các chính sách về:
- Thiết lập lại việc bảo vệ quyền riêng tư công cộng và ưu tiên thúc đẩy việc sử dụng dữ liệu quốc gia, sử dụng một cách thích hợp và hiệu quả một lượng lớn dữ liệu công - tư do Chính phủ quốc gia, Chính quyền địa phương và các công ty tư nhân nắm giữ được phân phối qua Internet và các mạng thông tin và truyền thông tiên tiến khác.
- Thiết lập các nguyên tắc cơ bản, thống nhất các tiêu chuẩn hệ thống và bảo đảm tính tương thích, làm rõ trách nhiệm của Chính phủ quốc gia,… và xây dựng một kế hoạch cơ bản để thúc đẩy việc sử dụng dữ liệu công - tư và các vấn đề cơ bản khác cho các biện pháp khác.
- Luật cũng lần đầu tiên định nghĩa “Trí tuệ nhân tạo AI”, “Internet of Things IoT” và “Dịch vụ điện toán đám mây”.
Đạo luật cơ bản về an ninh mạng: Để thúc đẩy toàn diện và hiệu quả các biện pháp liên quan đến an ninh mạng, nó thiết lập các nguyên tắc cơ bản, làm rõ trách nhiệm của Chính phủ, xây dựng Chiến lược an ninh mạng và quy định các vấn đề khác tạo thành cơ sở của các biện pháp đó.
Đạo luật cơ bản về việc hình thành một xã hội mạng thông tin và truyền thông tiên tiến (hay còn gọi là Luật cơ bản công nghệ thông tin): Thiết lập các chính sách cơ bản để xây dựng các nguyên tắc và các biện pháp cơ bản và làm rõ trách nhiệm của Chính quyền quốc gia và địa phương liên quan đến việc hình thành một xã hội mạng thông tin và truyền thông tiên tiến.
Đạo luật xác thực chữ ký điện tử: Các luật liên quan đến xác thực chữ ký điện tử, bao gồm “Đạo luật về chữ ký điện tử và dịch vụ xác thực” và “Đạo luật về dịch vụ xác thực của Cơ quan cho các hệ thống thông tin của Chính quyền địa phương liên quan đến chữ ký điện tử (Đạo luật xác thực cá nhân công khai)”. Trước đây, với mục đích tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động kinh tế và xã hội sử dụng các mạng như thương mại điện tử, quy định rằng chữ ký viết tay và con dấu và các dịch vụ chứng nhận (hoạt động chứng nhận người tạo chữ ký điện tử) đáp ứng một mức độ nhất định của công việc chứng nhận được chứng nhận là thước đo độ tin cậy như một hướng dẫn. Thứ hai, là một trong ba luật liên quan đến việc thực hiện các thủ tục hành chính trực tuyến dành cho chính quyền địa phương.
“My number” và Đạo luật số: hay còn gọi là Hành động về việc sử dụng số để xác định một cá nhân cụ thể trong thủ tục hành chính. “My number” được gán cho tất cả công dân Nhật Bản, dự kiến sẽ được sử dụng theo nhiều cách, bao gồm cả thuế. “My number” là một hệ thống để xác định các cá nhân cụ thể trong các thủ tục hành chính. Sự phối hợp thông tin giữa các cơ quan hành chính giúp bỏ qua các tài liệu đính kèm trong các thủ tục hành chính khác nhau. Thẻ My number cũng có thể được sử dụng để xác minh danh tính trong các dịch vụ tư nhân.
Luật Trấn áp tội phạm mạng và tấn công mạng: Vì luật pháp của Nhật Bản như Bộ luật Hình sự và Bộ luật Dân sự không có quy tắc trên Internet, Luật Trấn áp tội phạm và tấn công mạng đã dần được phát triển từ khoảng năm 2000.
Đạo luật ngăn chặn email thư rác (Đạo luật Email cụ thể) xác định “Theo nguyên tắc chung, nghiêm cấm truyền tải cho những người khác ngoài những người đã có sự đồng ý trước”, “Nghĩa vụ hiển thị một số vấn đề nhất định”, “Cấm truyền thông tin người gửi sai” và “Cấm truyền cho những người từ chối gửi”. Tùy thuộc vào tình trạng vi phạm, sẽ “Phạt tù đến một năm hoặc phạt tiền lên đến 1 triệu yên (trong trường hợp của một công ty, phạt tiền lên đến 30 triệu yên)”.
Đạo luật cấm truy cập trái phép: Luật này nghiêm cấm truy cập trái phép, thu thập và lưu trữ trái phép mã nhận dạng (ID, mật khẩu,…) dẫn đến truy cập trái phép và các hành vi khuyến khích truy cập trái phép. Truy cập trái phép có thể bị phạt tù tới 3 năm hoặc phạt tiền lên đến 1 triệu yên.
Ngày 27/2/2024, Nội các Nhật Bản đã thông qua dự luật thiết lập hệ thống an ninh thông tin, trong đó xác định các thông tin được đánh giá là “dữ liệu mật” trong vấn đề kinh tế nhằm ngăn chặn nguy cơ rò rỉ dữ liệu quan trọng ra nước ngoài”. Các dữ liệu được coi là mật chủ yếu liên quan đến công nghệ tiên tiến, cơ sở hạ tầng quan trọng hoặc ngăn chặn các cuộc tấn công mạng. Ban đầu, thông tin được dán nhãn mật trong khoảng 5 năm, nhưng có thể được Nội các cân nhắc và phê duyệt gia hạn lên tới 30 năm. Dự luật này quy định khép tội hình sự đối với các hành vi rò rỉ thông tin bí mật, theo đó phạt tù tối đa 5 năm hoặc phạt tiền lên tới 5 triệu yên (tương đương 33.000 USD).
Chiến lược dữ liệu
Tháng 6/2021, Nhật Bản công bố “Chiến lược dữ liệu quốc gia” là chiến lược dữ liệu toàn diện đầu tiên của Nhật Bản, xác định quan điểm “Thông qua việc bảo đảm sự tin tưởng và lợi ích công cộng, xây dựng khung cấu trúc để sử dụng dữ liệu an toàn và hiệu quả; bảo đảm sự tin tưởng vào bản thân dữ liệu cũng như phương pháp tạo, lưu thông dữ liệu của Nhật Bản trên phạm vi toàn thế giới; xây dựng một xã hội mà thế giới có thể yên tâm lưu trữ dữ liệu tại Nhật Bản”.
Triết lý, tầm nhìn và nguyên tắc hướng dẫn của chiến lược dữ liệu toàn diện bao gồm:
Triết lý: Xây dựng một hệ thống cho phép dữ liệu được sử dụng một cách an toàn và hiệu quả thông qua việc bảo đảm niềm tin và lợi ích công cộng, đồng thời bảo đảm niềm tin vào chính dữ liệu của Nhật Bản và cách nó được tạo ra và phân phối từ thế giới, để thế giới có thể yên tâm sử dụng dữ liệu của Nhật Bản và dữ liệu của thế giới có thể được giao phó cho Nhật Bản một cách an tâm.
Tầm nhìn: Một xã hội lấy người dân làm trung tâm, cân bằng giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội (tạo ra giá trị mới) dựa trên một hệ thống (bản sao số) tích hợp cao không gian vật lý (không gian thực) và không gian mạng (không gian ảo).
Hướng dẫn hành động: Dữ liệu được kết nối và có thể được sử dụng bất cứ lúc nào. Dữ liệu không được sử sụng mà không được phép, nó có thể được sử dụng một cách an toàn. Mọi người làm việc cùng nhau để tạo ra giá trị mới.
Để thực hiện Chiến lược dữ liệu quốc gia, tháng 9/2021, Nhật Bản đã thành lập Cơ quan kỹ thuật số. Trong “Chiến lược dữ liệu quốc gia”, Nhật Bản dự kiến kiến trúc quản trị dữ liệu gồm bảy tầng:
Tầng 1 (cơ sở hạ tầng): 5G, trung tâm dữ liệu, cơ sở hạ tầng máy tính và cơ sở hạ tầng khác hỗ trợ xã hội số.
Tầng 2 (dữ liệu): Bắt đầu từ dữ liệu cơ bản của các hoạt động xã hội, xây dựng cấu trúc các dữ liệu cần thiết.
Tầng 3 (nền tảng hợp tác): Trang bị các công cụ liên kết để tích hợp các dữ liệu một cách có hệ thống.
Tầng 4 (môi trường sử dụng): Cung cấp môi trường thuận lợi cho các đối tượng khác nhau lưu trữ dữ liệu cá nhân thuận tiện và liên kết chúng với ngân hàng thông tin, thị trường giao dịch dữ liệu.
Tầng 5 (quy tắc): Ngoài việc hoàn thiện các quy tắc cần thiết cho liên kết dữ liệu, còn cần hoàn thiện các quy tắc để các chủ thể an tâm sử dụng dữ liệu.
Tầng 6 (tổ chức): Cải cách hành chính và công vụ.
Tầng 7: chiến lược, chính sách.
Lý do: Nhật Bản triển khai các biện pháp thúc đẩy chuỗi công nghiệp dữ liệu vì nước này nhận thấy rằng họ có các vấn đề như hạ tầng kỹ thuật số chưa hoàn thiện; thiếu dữ liệu cơ sở; chia sẻ dữ liệu không đầy đủ giữa chính phủ, tư nhân và doanh nghiệp; hiểu biết về dữ liệu trong xã hội còn thấp và vấn đề quyền riêng tư.
Các điểm chính của Chiến lược dữ liệu quốc gia của Nhật Bản bao gồm:
1- Tăng cường việc thu thập và quản lý dữ liệu: Nhật Bản cam kết tăng cường việc thu thập và quản lý dữ liệu trong các lĩnh vực khác nhau, từ kinh doanh đến công nghệ y tế và môi trường.
2- Khuyến khích chia sẻ dữ liệu: Chiến lược dữ liệu quốc gia đặt mục tiêu khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức và cơ quan Chính phủ chia sẻ dữ liệu một cách rộng rãi và an toàn, tạo điều kiện cho sự hợp tác và sáng tạo.
3- Xây dựng cơ sở hạ tầng dữ liệu: Nhật Bản cam kết đầu tư vào cơ sở hạ tầng dữ liệu hiện đại để hỗ trợ việc thu thập, lưu trữ và truy cập dữ liệu một cách hiệu quả.
4- Bảo vệ dữ liệu cá nhân: Chiến lược dữ liệu quốc gia chú trọng đến việc bảo vệ quyền riêng tư và an ninh thông tin của người dân thông qua việc áp dụng các biện pháp bảo mật dữ liệu hiệu quả.
5- Khuyến khích nghiên cứu và phát triển công nghệ dữ liệu: Nhật Bản đề xuất việc tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển các công nghệ mới liên quan đến dữ liệu, bao gồm Trí tuệ nhân tạo và học máy.
Kết nối, trao đổi và chia sẻ dữ liệu
Nhật Bản cũng thực hiện xây dựng các cơ sở dữ liệu và chuẩn hóa mô hình dữ liệu để đáp ứng chia sẻ giữa các cơ quan nhà nước. Các cơ sở dữ liệu cơ bản của Nhật Bản bao gồm:
1- CSDL con người chứa các thông tin về con người.
2- CSDL pháp nhân chứa các thông tin về doanh nghiệp, tổ chức,…
3- CSDL đất đai chứa thông tin về các khu đất được sử dụng cho một mục đích cụ thể.
4- CSDL địa chỉ chứa thông tin về địa chỉ.
5- CSDL tòa nhà chứa thông tin về các tòa nhà.
6- CSDL hạ tầng công cộng chứa thông tin về điểm đỗ xe,…
7- CSDL dịch vụ công chứa thông tin về hỗ trợ tài chính, dịch vụ tư vấn của Chính phủ,…
8- CSDL sự kiện chứa thông tin về các sự kiện kinh doanh, thể thao, giáo dục, giải trí,… diễn ra tại một thời điểm và địa điểm cụ thể.
9- CSDL giao thông chứa thông tin về giao thông như tuyến đường, đoạn đường,…
Cơ quan Kỹ thuật số Nhật Bản đã thiết lập “Khung tương tác của Chính phủ GIF” như một hệ thống kỹ thuật để hiện thực hóa một xã hội trong đó, dữ liệu có thể được sử dụng và phối hợp trơn tru. Sử dụng khung này để tổ chức dữ liệu có thể thiết kế dữ liệu có khả năng mở rộng cao và dễ liên kết.
GIF như một tập hợp các quy tắc cộng tác, tiêu chuẩn kỹ thuật và mẫu cho xã hội số.
Hình 1. Khung tương tác của Chính phủ Nhật Bản
Để chuẩn hóa dữ liệu hành chính, các mô hình dữ liệu sau đây đã được thiết kế và xuất bản như một phần của hướng dẫn tiêu chuẩn (https://cio.go.jp/guides) được sử dụng làm tiêu chuẩn chung để liên kết dữ liệu.
- Mô hình liên kết dữ liệu thông tin cơ bản hành chính.
- Mô hình liên kết dữ liệu cơ bản về quản trị.
- Bộ dữ liệu được đề xuất.
- Cơ sở từ vựng phổ biến,…
GIF cung cấp một mô hình tham chiếu cho dữ liệu và mỗi nhà cung cấp dịch vụ có thể sử dụng hoặc mở rộng mô hình tham chiếu theo từng phần, cho phép thiết kế linh hoạt cho từng mục đích. Ngoài ra, sẽ dễ dàng hơn để liên kết với các dịch vụ khác sử dụng dữ liệu tuân thủ GIF và chuyển sang các dịch vụ mới, mở khả năng tạo ra các dịch vụ mới.
Cơ sở hạ tầng cho khả năng tương tác đa lớp IMI (Infrastructure for Multilayer Interoperability) là một phần của kế hoạch hành động để phát triển môi trường sử dụng trong lĩnh vực Chính phủ điện tử và là nền tảng để chuẩn hóa các ký tự và thuật ngữ được sử dụng trong dữ liệu và tạo điều kiện cho việc chia sẻ và sử dụng thông tin. Sử dụng một nền tảng thông tin bằng văn bản và một cơ sở từ vựng chung có thể tăng cường khả năng tương tác của dữ liệu mở, dữ liệu Chính phủ điện tử và dữ liệu riêng tư.
Cơ sở dữ liệu phổ biến: Bằng cách thống nhất ký hiệu, ý nghĩa và cấu trúc của các thuật ngữ khác nhau được sử dụng trong dữ liệu có thể cải thiện tìm kiếm dữ liệu và tăng cường liên kết hệ thống trên các lĩnh vực.
Từ vựng phổ biến tạo thành cốt lõi của Nền tảng từ vựng chung IMI được liệt kê. Từ vựng của Cơ sở từ vựng chung IMI bao gồm 2 lớp: từ vựng cốt lõi và từ vựng miền.
- Từ vựng cốt lõi là từ vựng cơ bản phổ biến cho nhiều lĩnh vực kinh doanh.
- Từ vựng miền là một từ vựng được chuẩn bị cho từng lĩnh vực kinh doanh.
Nếu nhà cung cấp dữ liệu, nhà phát triển ứng dụng và người dùng dữ liệu áp dụng nền tảng từ vựng chung IMI và nhà cung cấp dữ liệu thêm dữ liệu cho thấy mối quan hệ giữa từ vựng dữ liệu và từ vựng phổ biến, trao đổi dữ liệu cơ học có thể được thực hiện mà không thay đổi tên mục dữ liệu thông thường. Thông tin cho việc này là mô tả Mô hình dữ liệu DMD. DMD bao gồm các câu giải thích từ vựng cho con người, hạn chế sử dụng từ vựng, cấu trúc dữ liệu giải thích cho máy tính và ánh xạ từ vựng với cấu trúc dữ liệu. Bằng cách xác định DMD, các nhà cung cấp dữ liệu có thể xuất bản dữ liệu mà không làm thay đổi cấu trúc dữ liệu và các nhà phát triển và người dùng dữ liệu như các ứng dụng có thể diễn giải chính xác ý nghĩa của dữ liệu được công bố. Bằng cách này, Nền tảng từ vựng chung IMI được đặc trưng bởi khả năng tương tác dữ liệu mà không thay đổi đáng kể cách trao đổi dữ liệu hiện có.
Phát triển mạng lưới dịch vụ công
Dựa trên thiết kế tổng thể của Cơ quan kỹ thuật số, thiết kế kiến trúc của mạng lưới dịch vụ công và tiến hành xây dựng nó. Ngoài việc thúc đẩy hợp tác dữ liệu giữa Chính quyền Trung ương và địa phương để nâng cao hiệu quả công việc hành chính, nó cũng kết nối với cơ sở hạ tầng liên kết dữ liệu để hỗ trợ các dịch vụ khác nhau. Các ví dụ bao gồm việc cung cấp các dịch vụ như xác minh danh tính và giấy chứng nhận tiêm chủng bằng thẻ My Number và cung cấp dữ liệu như dữ liệu kiểm tra y tế và dữ liệu thuốc thông qua Mynaportal.
Cơ quan Kỹ thuật số phát triển các chức năng trung gian dữ liệu (hay còn gọi là nhà môi giới), các thành phần cốt lõi của cơ sở hạ tầng cộng tác dữ liệu dựa trên kiến trúc thành phố thông minh mà Chính phủ đang phát triển. Các công ty và tổ chức liên quan sẽ thành lập một tổ chức quản lý và bằng cách cung cấp các dịch vụ miễn phí cũng như tư vấn về cách sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng cộng tác dữ liệu thống nhất ở mỗi khu vực.
“Chức năng trung gian dữ liệu (hay còn gọi là nhà môi giới dữ liệu)” là một thành phần cần thiết cho nền tảng liên kết dữ liệu, thể hiện: (1) chức năng dịch dữ liệu - chuyển đổi dữ liệu thành dữ liệu có thể đọc được lẫn nhau; (2) chức năng phản hồi xác thực - kết nối đến đích chính xác.
Dịch vụ công
Nhật Bản xem xét các dịch vụ công được cung cấp bởi các cơ quan hành chính quốc gia hoặc chính quyền địa phương, từ quan điểm ủy thác khu vực tư nhân bằng cách lựa chọn các dịch vụ tích hợp được kỳ vọng sẽ phản ánh sự khéo léo của các nhà khai thác tư nhân và đưa họ vào đấu thầu cạnh tranh công tư hoặc đấu thầu cạnh tranh tư nhân. Cải cách nhằm duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ công và giảm chi phí (hay còn gọi là “cải cách dịch vụ công thông qua việc giới thiệu cạnh tranh”). Để thực hiện các nguyên tắc trên, Nhật Bản đã ban hành các nguyên tắc cơ bản, xây dựng chính sách cơ bản về cải cách dịch vụ công, thủ tục đấu thầu cạnh tranh công tư và đấu thầu cạnh tranh tư nhân, các biện pháp cần thiết để khu vực tư nhân thực hiện thành công các dịch vụ công, thành lập Ủy ban giám sát đấu thầu cạnh tranh công tư và các vấn đề cần thiết khác.
Các chỉ số báo cáo, thống kê kinh tế - xã hội
Cục Thống kê của Bộ Nội vụ và Truyền thông và các đơn vị đã bắt đầu sử dụng dữ liệu lớn,... trong việc xây dựng các chỉ số điều hành. Nền tảng cho sự tiến bộ trong việc sử dụng dữ liệu lớn,... là sự cải thiện hiệu quả của thống kê chính thức dựa trên các khuyến nghị của Ủy ban Thống kê,... Ngoài ra, còn có nhu cầu cải thiện độ chính xác và khó khăn trong việc tiếp tục các cuộc khảo sát hiện có do số lượng nhân viên hiện trường giảm. Mặc dù phương pháp đánh giá chất lượng của số liệu thống kê được tạo bằng dữ liệu lớn, các phương pháp tiếp nhận và xử lý dữ liệu lớn chưa được chuẩn hóa... chưa được chuẩn hóa, việc thực hiện vẫn đang được tiếp tục. Để đối phó với các rủi ro về quyền riêng tư, CTI đang triển khai việc lưu trữ và tổng hợp dữ liệu một cách an toàn.
Các hình thức sử dụng dữ liệu lớn được phân loại thành:
- Loại 1: Bổ sung/thay thế số liệu thống kê chính thức hiện có
+ Tổng quan về các loại sử dụng dữ liệu lớn và hồ sơ hành chính để tạo biểu mẫu khảo sát mà không ảnh hưởng đến chất lượng của số liệu thống kê chính thức hiện có. Bổ sung bộ phận hoặc thay thế khảo sát bằng bảng câu hỏi.
+ Các trường hợp chính dữ liệu thời tiết và dữ liệu vệ tinh được sử dụng trong các cuộc điều tra thống kê cây trồng ở Nhật Bản. Chỉ số giá tiêu dùng Nhật Bản, thông tin giá dựa trên dữ liệu thu thập trên web và dữ liệu POS đang thu thập.
- Loại 2: Tìm kiếm số liệu thống kê và chỉ báo mới bằng “phiên bản β”: Tổng quan về các loại bằng cách sử dụng dữ liệu lớn và hồ sơ hành chính để triển khai các tiêu chuẩn mới chưa được triển khai trong thống kê chính thức cho đến nay. Tạo tổng số và chỉ số dưới dạng “phiên bản beta”.
Một số ví dụ về việc sử dụng dữ liệu lớn theo loại bổ sung, thay thế số liệu thống kê chính thức hiện có:
- Tổ chức thống kê - Cục Thống kê, Bộ Nội vụ và Truyền thông
+ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Dữ liệu POS và web
+ Chỉ số xu hướng tiêu dùng (CTI): Tại hội đồng doanh nghiệp học viện chính phủ và tạo ra nó bằng cách sử dụng tiền điện tử, thông tin thẻ tín dụng,...
- Bộ Kinh tế, thương mại và nông nghiệp:
+ Khảo sát thống kê thương mại: Sử dụng dữ liệu POS, Cho phép thay thế cho bảng câu hỏi.
+ Khảo sát xu hướng công ty liên kết nước ngoài: Nghiên cứu từ dữ liệu công ty (Khai thác các công ty).
- Bộ Nông lâm thủy sản:
+ Khảo sát thống kê cây trồng: Dữ liệu vệ tinh, dữ liệu thời tiết
+ Tổng điều tra nông lâm nghiệp (Khảo sát khu vực nông thôn): Dữ liệu bản đồ, hệ thống định vị ô tô được tạo từ dữ liệu cơ sở,…
- Văn phòng nội các:
+ Chỉ số xu hướng kinh tế: Chỉ số hàng hóa Nikkei, cổ phiếu TSE,..
Dữ liệu mở
“Chiến lược dữ liệu mở Chính phủ điện tử” được xây dựng bởi Trụ sở Chiến lược CNTT vào tháng 7 năm 2014. Chiến lược này có 4 nguyên tắc cơ bản: (1) bản thân Chính phủ nên tích cực tiết lộ dữ liệu công khai, (2) xuất bản nó ở định dạng máy có thể đọc được, (3) thúc đẩy việc sử dụng dữ liệu công khai cho cả mục đích thương mại và phi thương mại, và (4) nhanh chóng bắt đầu các sáng kiến cụ thể từ dữ liệu.
Theo Đạo luật cơ bản về thúc đẩy sử dụng dữ liệu công-tư (Đạo luật số 103/28), Chính quyền trung ương và địa phương có nghĩa vụ làm việc trên dữ liệu mở. Những nỗ lực để dữ liệu mở được kỳ vọng sẽ giải quyết các vấn đề khác nhau thông qua việc thúc đẩy sự tham gia của công chúng và hợp tác công-tư, hồi sinh nền kinh tế và cải thiện sự tinh vi và hiệu quả của hành chính công.
Dịch vụ Data Studio là một trang web cổng thông tin (https://data.egov.go.jp/info/ja) cho phép tìm kiếm trên dữ liệu mở được xuất bản bởi các cơ quan Chính phủ. Dịch vụ đã được gia hạn vào ngày 31/3/2023 và bắt đầu như một trong những chức năng của e-Gov.
Dịch vụ Data Studio cung cấp các chức năng sau.
- Chức năng tìm kiếm toàn văn bản có thể tìm kiếm ngay cả nội dung của dữ liệu mở.
- Khả năng trực quan hóa dữ liệu mở với biểu đồ, đồ thị,…
- Chức năng giao tiếp cho phép chia sẻ ý kiến và yêu cầu về dữ liệu mở và các ví dụ về việc sử dụng dữ liệu.
Thị trường dữ liệu
Khái niệm về thị trường trao đổi dữ liệu được tóm tắt trong Chiến lược dữ liệu toàn diện là thị trường thiết lập quyền truy cập dữ liệu,... và các nhà khai thác công bằng, trung lập và đáng tin cậy làm trung gian cho các giao dịch này để điều phối dữ liệu và tạo ra một thị trường năng động.
Ba điểm chính của thị trường trao đổi dữ liệu được đề cập trong Chiến lược dữ liệu toàn diện như sau:
- (1) Để tối đa hóa giá trị của dữ liệu, cần phải có một “thị trường trao đổi dữ liệu” trong đó các bên khác nhau tham gia và trao đổi quyền truy cập để sử dụng dữ liệu.
- (2) Để thị trường hoạt động tốt, cần phải giúp những người tham gia thị trường dễ dàng tham gia giao dịch một cách an tâm.
- (3) Do đó, cần làm rõ các yêu cầu của nhà điều hành doanh nghiệp điều hành thị trường giao dịch (đảm bảo công bằng và trung lập, cung cấp các chức năng hỗ trợ hợp đồng,…
Bài học kinh nghiệm
Chính phủ Nhật Bản đã thành công trong việc xây dựng Chiến lược dữ liệu quốc gia mang tính quyết định mọi vấn đề từ xây dựng chính sách, hạ tầng công nghệ thông tin đến việc cung cấp từng dịch vụ cụ thể cho người dân, doanh nghiệp, bảo đảm “không để ai ở lại phía sau”.
Chiến lược Dữ liệu quốc gia của Việt Nam đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đặt mục tiêu xây dựng hạ tầng dữ liệu mạnh mẽ, kết nối, chia sẻ và an toàn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội toàn diện.
Để thực hiện quan điểm của Thủ tướng Chính phủ với phương châm “hành động nhanh, kết quả lớn; nghĩ lớn, nhìn tổng thể nhưng bắt đầu từ những việc cụ thể”, chúng ta cần thống nhất việc xây dựng, thực thi các chính sách, chiến lược để Việt Nam đạt được những mục tiêu “Đưa Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đạt mức thu nhập cao vào năm 2045”.
Lương Thị Kim Thanh
Tài liệu tham khảo
Japan National Data Strategy
Japan Open Government Data Strategy