Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi số trên phạm vi toàn cầu. Các biện pháp phong tỏa đã đưa phần lớn hoạt động của thế giới lên môi trường trực tuyến, làm cho việc ứng dụng công nghệ số trở thành yếu tố then chốt để duy trì tính liên tục của các hoạt động công, tư và xã hội. Sự gia tăng đột biến này đã đẩy nhanh các quá trình đã diễn ra trong nhiều thập kỷ, dẫn đến sự lan tỏa sâu rộng của công nghệ số trên nhiều lĩnh vực: từ cấp độ cá nhân (tham gia học tập, làm việc và mua sắm trực tuyến) đến cấp độ quốc gia (chuyển dịch sang nền kinh tế số, quản trị số và xã hội số); từ các doanh nghiệp (áp dụng các mô hình kinh doanh mới, dịch vụ mới và phương thức phân phối mới) đến toàn bộ các ngành công nghiệp (chuyển sang tự động hóa quy trình và khai thác lợi ích của trí tuệ nhân tạo); từ chính quyền địa phương đến chính phủ quốc gia (cung cấp hoạt động quản trị minh bạch và hiệu quả hơn, cũng như các dịch vụ công kỹ thuật số).
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu và thế giới ngày càng số hóa (theo một số ước tính, 70% giá trị kinh tế mới trên toàn cầu dự kiến sẽ được tạo ra trên các nền tảng hỗ trợ kỹ thuật số trong thập kỷ tới và thị trường chuyển đổi số toàn cầu dự kiến sẽ tăng hơn gấp đôi vào năm 2025), tác động của quá trình này không đồng đều trên toàn thế giới. Tốc độ và mức độ chuyển đổi số khác nhau giữa các quốc gia: một số quốc gia đang đạt được những tiến bộ nhanh chóng, trong khi những quốc gia khác vẫn đang trong giai đoạn đầu áp dụng. Phạm vi của các nỗ lực chuyển đổi số cũng khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào các yếu tố như bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như mức độ kết nối kỹ thuật số, kỹ năng số, mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật và các yếu tố liên quan khác. Tuy nhiên, tính đến năm 2022, vẫn còn 2,7 tỷ người chưa được kết nối Internet. Khả năng kết nối Internet phổ cập và hiệu quả vẫn là một thách thức lớn đối với các quốc gia kém phát triển nhất (LDCs), nơi tỷ lệ dân số sử dụng Internet chỉ đạt 36% vào năm 2022, so với mức trung bình 66% trên toàn cầu.
Mục đích của bài viết này là cung cấp hướng dẫn cho các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý và các tổ chức xử lý chuyển đổi số. Nó phác thảo các bước cần thiết và các yếu tố thiết yếu cần được xem xét khi phát triển chiến lược chuyển đổi số quốc gia bằng cách xem xét những gì cần đạt được, tại sao nó quan trọng và cách thực hiện nó.
I. Tầm quan trọng của việc có chiến lược chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số mang lại tiềm năng to lớn trên nhiều phương diện. Các bằng chứng kinh tế lượng đã chứng minh tác động tích cực của chuyển đổi số đối với tăng trưởng kinh tế và kết quả thị trường. Xét từ góc độ quản trị, chuyển đổi số có tiềm năng tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, giảm thiểu quan liêu, phòng chống tham nhũng, trốn thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tương tác với chính phủ. Về mặt xã hội, chuyển đổi số hứa hẹn cải thiện việc cung cấp các dịch vụ y tế và giáo dục, tạo điều kiện hòa nhập xã hội và giao tiếp, đồng thời nâng cao phúc lợi xã hội. Cuối cùng, chuyển đổi số có thể tác động tích cực đến tính bền vững môi trường thông qua việc quản lý và xử lý chất thải thông minh hơn, phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, cũng như quản lý tài nguyên bền vững.
Tuy nhiên, chuyển đổi số cũng có thể dẫn đến những tác động tiêu cực, như gián đoạn lực lượng lao động, các vấn đề về an ninh mạng và quyền riêng tư dữ liệu, thậm chí còn gạt ra ngoài lề những nhóm dân số chưa kết nối mạng hoặc mù chữ về kỹ thuật số, cũng như góp phần vào những tác động tiêu cực đến tính bền vững môi trường (ví dụ: tăng khối lượng rác thải điện tử, tiêu thụ năng lượng, khai thác và chiết xuất tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho các sản phẩm phần cứng). Điều này có nghĩa là chuyển đổi số sẽ không tự động đảm bảo thành công hoặc tự động mang lại kết quả như mong đợi.
Chuyển đổi số quốc gia là một quá trình phức tạp, liên quan đến nhiều bên liên quan và các lợi ích đa dạng, bao gồm các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giao thông vận tải, năng lượng, môi trường, quản trị và các lĩnh vực khác. Quá trình này đòi hỏi các khoản đầu tư đáng kể, yêu cầu giải quyết các vấn đề đạo đức và pháp lý phức tạp, đồng thời cần sự thích ứng liên tục để duy trì tính phù hợp trong bối cảnh kỹ thuật số không ngừng biến đổi. Việc triển khai quá trình chuyển đổi số có thể gặp nhiều thách thức, do đó đòi hỏi việc áp dụng các công cụ phù hợp và các phương pháp tiếp cận toàn diện và phối hợp.
Một chiến lược chuyển đổi số (DTS) quốc gia được xác định rõ ràng có thể đóng vai trò như một hướng dẫn – cung cấp một khuôn khổ ra quyết định, giúp ưu tiên các mục tiêu quốc gia và hướng dẫn phân bổ nguồn lực hướng tới các kết quả mong muốn. Nó cũng có thể giúp điều hướng những bất ổn, ngay cả trong những thời điểm thay đổi và đầy thách thức, và tăng cường sự phối hợp và hợp tác giữa các bên liên quan. Hơn nữa, người ta thừa nhận rộng rãi rằng chuyển đổi số là điều thiết yếu để đạt được Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững và 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) của nó. Khi được sử dụng đúng cách, các công cụ và công nghệ kỹ thuật số có thể đóng vai trò là chất xúc tác để thúc đẩy việc thực hiện các SDGs. Việcalign các chiến lược chuyển đổi số quốc gia với các SDGs khuyến khích các quốc gia áp dụng một cách tiếp cận cân bằng hơn đối với chuyển đổi số, tức là xem xét các khía cạnh khác nhau của tác động kỹ thuật số.
Khi phát triển một DTS quốc gia được xác định rõ ràng, cần xem xét các đặc điểm sau:
- Nhất quán – phù hợp với các chiến lược và/hoặc chính sách trong nước và quốc tế liên quan;
- Toàn diện, tổng thể – bao gồm nhiều lĩnh vực;
- Bao trùm, trao quyền và lấy con người làm trung tâm – nhằm mục đích thu hẹp tất cả các khoảng cách kỹ thuật số (khu vực, giới tính, độ tuổi, nhóm xã hội) và đảm bảo rằng mọi người đều có thể hưởng lợi từ công nghệ kỹ thuật số;
- Hợp tác – thu hút tất cả các bên liên quan, bao gồm các bộ phận và cấp chính quyền khác nhau, các bên liên quan phi chính phủ và xã hội dân sự, đồng thời thiết lập tầm nhìn và giá trị chung;
- Dựa trên dữ liệu và bằng chứng – đánh giá các xu hướng kỹ thuật số chính, đánh giá các đường cơ sở kỹ thuật số hiện có và các chính sách hiện hành, xác định các cơ hội và thách thức của hành trình kỹ thuật số này;
- Tham vọng nhưng khả thi – cung cấp một tầm nhìn chiến lược rõ ràng;
- Có thể đo lường – xác định các kết quả và đầu ra dự kiến cụ thể;
- Linh hoạt – có hệ thống giám sát và đánh giá kỹ lưỡng.
II. Xây dựng chiến lược chuyển đổi kỹ thuật số quốc gia
Không có một kế hoạch chiến lược chung duy nhất cho chuyển đổi số. Nó phải được điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, bao gồm bối cảnh chính trị, xã hội và kinh tế, sự lãnh đạo, văn hóa, độ phức tạp tổng thể của hệ sinh thái và các yếu tố khác. Một DTS (Chiến lược Chuyển đổi Số) sẽ thể hiện một sự kết hợp độc đáo của kinh nghiệm, ý tưởng, công cụ và nguồn lực sẵn có. Tuy nhiên, việc phát triển một DTS sẽ luôn là một chu kỳ, được thể hiện trong Hình 1.
Hình 1. Chu kỳ phát triển DTS
Các phần sau đây sẽ xem xét bốn giai đoạn chính của việc phát triển các chiến lược chuyển đổi số, mỗi giai đoạn.
Giai đoạn 1: Chuẩn bị và khởi động
- Đảm bảo ý chí chính trị và sự ủng hộ chính trị.
- Thiết lập một khuôn khổ quản trị chiến lược đảm bảo sự phối hợp và hợp tác giữa các cơ quan chính phủ và giữa các lĩnh vực, đồng thời thiết lập các quy trình, vai trò và trách nhiệm rõ ràng của tất cả các bên liên quan.
- Lựa chọn tổ chức hoặc cơ quan dẫn đầu, xác định người đứng đầu chiến lược kỹ thuật số. Quá trình này nên được dẫn dắt bởi một cơ quan có thẩm quyền với nhiệm vụ cần thiết để thúc đẩy quá trình phát triển DTS, và được trao quyền hỗ trợ chính trị cấp cao, nguồn lực tài chính đầy đủ và năng lực con người.
- Xác định các bên liên quan chính, thành lập các cơ quan quản trị chính tập hợp nhiều bên liên quan dưới một hình thức quản trị hợp tác nào đó để thúc đẩy ý thức làm chủ, một nền văn hóa hợp tác và quan hệ đối tác giữa các bên liên quan để đạt được kết quả tốt hơn. Có thể xem xét phương pháp tiếp cận toàn chính phủ (WGA) hoặc phương pháp tiếp cận toàn xã hội (WSA).
- Chuẩn bị kế hoạch xây dựng DTS. Kế hoạch này nên xác định: các bước chính, thời gian biểu và các yêu cầu về nguồn lực con người và tài chính; một quy trình tham vấn phù hợp với nhu cầu, bối cảnh và ngân sách của mình; và sự tham gia của các bên liên quan (khảo sát trực tuyến, điều trần công khai, nhóm tập trung, thảo luận bàn tròn, v.v.).
Giai đoạn II. Xây dựng chiến lược
- Lập bản đồ các tài liệu hiện có để đảm bảo tính nhất quán. DTS cũng nên đảm bảo tính nhất quán với các tài liệu chiến lược quốc gia hiện có (hoặc sắp tới) về các lĩnh vực chính sẽ được DTS đề cập để tránh chồng chéo hoặc các cách tiếp cận mâu thuẫn và để xác định các hiệp lực có thể có.
- Tiến hành phân tích chiến lược, bao gồm cả đánh giá mức độ trưởng thành kỹ thuật số và hệ sinh thái kỹ thuật số để xác định điểm mạnh và điểm yếu. Có thể sử dụng các công cụ PEST/PESTEL, cũng như phân tích khoảng cách hoặc phân tích SWOT, hoặc so sánh quốc tế về các chỉ số được chọn. Tiêu chuẩn G5 của ITU, Công cụ theo dõi quản lý ICT, khuôn khổ thống nhất, Bảng điều khiển Phát triển Kỹ thuật số và Vòng quay Chuyển đổi Kỹ thuật số có thể hỗ trợ các quốc gia trên hành trình kỹ thuật số của họ. Các khuôn khổ từ các tổ chức khác cũng có sẵn.
- Diễn đạt một tầm nhìn rõ ràng, đầy tham vọng nhưng khả thi. Một tuyên bố tầm nhìn nên đầy khát vọng và tham vọng; có thể đạt được; và có ý nghĩa.
- Đặt ra các ưu tiên và mục tiêu chiến lược rõ ràng dựa trên bối cảnh chính trị, xã hội, kinh tế và môi trường. Khi thiết lập các mục tiêu, phương pháp SMART có thể giúp thiết lập các mục tiêu cụ thể, đo lường được, có thể đạt được, phù hợp và có thời hạn.
- Xác định các số liệu chiến lược (chỉ số hiệu suất chính) và kết quả dự kiến. Có nhiều loại KPI khác nhau để lựa chọn: tài chính, kết quả, định tính, định lượng, dẫn đầu, tụt hậu và các loại khác. KPI chiến lược nên được điều chỉnh phù hợp với KPI được xác định ở cấp quốc tế hoặc khu vực.
- Xây dựng lộ trình để đảm bảo rằng chiến lược được chuyển thành các bước hành động. Một lộ trình có thể bao gồm các cột mốc, thời gian biểu và nhiệm vụ cụ thể, các sáng kiến với chủ sở hữu được xác định, khung thời gian và các nguồn lực cần thiết.
- Đảm bảo giám sát và đánh giá chiến lược, và xác định quản trị vận hành. Nên xem xét một khuôn khổ giám sát và đánh giá thích hợp – đặt ra các hướng dẫn về cách thức, thời điểm và bởi ai việc thực hiện DTS sẽ được giám sát và xem xét.
Giai đoạn III. Đảm bảo thực hiện – biến chiến lược thành khả thi
- Chuyển chiến lược thành hiện thực vận hành thông qua các kế hoạch ngắn hạn, bao gồm các điều chỉnh, tinh chỉnh và cải tiến liên tục đối với DTS.
- Đảm bảo nguồn vốn phù hợp, đảm bảo các cam kết và tạo động lực. Một loạt các công cụ và cơ chế tài chính tồn tại – bao gồm viện trợ nhà nước, vốn đầu tư mạo hiểm, cơ chế đồng tài trợ công tư và tài trợ dựa trên kết quả – để huy động và hướng nguồn lực tài chính vào việc thực hiện DTS. Các ưu đãi kinh tế và tài chính cũng đóng một vai trò quan trọng.
- Đào tạo, giáo dục và xây dựng năng lực. Tất cả các DTS đều thừa nhận tầm quan trọng của kỹ năng và giáo dục kỹ thuật số như một nền tảng để đạt được các mục tiêu chiến lược. Các chính phủ cần đóng một vai trò chủ động trong việc tạo ra một nguồn cung cấp kỹ năng và năng lực. Các học viện kỹ thuật số đang được ra mắt để theo kịp nhiệm vụ này.
- Truyền thông: cung cấp một hiểu biết rõ ràng về mục đích và ý nghĩa của chiến lược. Các phương thức truyền thông hai chiều (thảo luận bàn tròn, hội nghị, hội thảo, v.v.) cung cấp cơ hội để nhận được các phản ứng và quan điểm rộng hơn về chiến lược và việc thực hiện nó.
Giai đoạn IV: Giám sát và đánh giá
- Thiết lập một khuôn khổ giám sát và đánh giá chính thức. Các quốc gia phải xác định rõ: i) những chỉ số nào đang được giám sát và tần suất như thế nào; ii) ai chịu trách nhiệm cung cấp và tính chính xác của dữ liệu; và iii) ai chịu trách nhiệm tổng hợp và báo cáo dữ liệu.
- Thiết lập một lịch trình rõ ràng cho các hoạt động đánh giá.
- Kết hợp kết quả đánh giá vào chu kỳ lập kế hoạch.
- Xác định rõ vai trò và trách nhiệm.
Sau khi trình bầy tóm tắt bốn giai đoạn chính của của việc phát triển các chiến lược chuyển đổi số, ta nhận thấy giai đoạn một và giai đoạn hai là hai giai đoạn then chôt của quá trình xây dựng chiến lược. Tác giả muốn mô tả chi tiết hai giai đoạn then chôt đó trong hai phần tiếp theo của bài viết này.
Mai Xuân Cường - Phòng Chính sách số
Nguồn tham khảo
https://digitalregulation.org/national-digital-transformation-strategy-mapping-the-digital-journey/