Đang xử lý.....

Hành trình chuyển đổi số của Nhật Bản – Hòa nhập Thành phố thông minh, hướng đến Xã hội 5.0  

Những năm 1990 đánh dấu sự bắt đầu của chuyển đổi số tại Nhật Bản, tập trung vào phát triển các chiến lược, chính sách và chương trình trợ cấp số với cách tiếp cận toàn diện trên nhiều bộ và ngành. Để đạt được điều này, vai trò tích cực của các bên liên quan trong bối cảnh chuyển đổi số là không thể phủ nhận.
Thứ Sáu, 15/11/2024 49
|

Lời nói đầu

Những năm 1990 đánh dấu sự bắt đầu của chuyển đổi số tại Nhật Bản, tập trung vào phát triển các chiến lược, chính sách và chương trình trợ cấp số với cách tiếp cận toàn diện trên nhiều bộ và ngành. Để đạt được điều này, vai trò tích cực của các bên liên quan trong bối cảnh chuyển đổi số là không thể phủ nhận.   

Các yếu tố hỗ trợ về mặt thể chế, chẳng hạn như chính sách, luật pháp và quy định của chính phủ, tạo thành nền tảng cho bốn yếu tố chính của quá trình chuyển đổi số: cơ sở hạ tầng số, dữ liệu, con người và kỹ năng số. Bài viết này trình bày tổng quan về vai trò của chính phủ Nhật Bản cũng như nêu bật các bộ và văn phòng chính đóng vai trò tích cực trong các sáng kiến số hóa và thành phố thông minh.

Sự phát triển các chính sách số hóa của chính phủ Nhật Bản

Tiến trình của các nỗ lực số hóa của Nhật Bản có thể được phân loại thành bốn giai đoạn riêng biệt. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi các mục tiêu chính sách riêng biệt và các lĩnh vực ưu tiên để xác định quỹ đạo chuyển đổi số tiếp theo, tất cả đều dựa trên bối cảnh chính trị, bối cảnh xã hội và kinh tế đang phát triển nhanh chóng của Nhật Bản. Song hành với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) và nền kinh tế số, điều quan trọng Chính phủ Nhật Bản phải xem xét lại theo từng giai đoạn và cập nhật các chính sách liên quan đến chuyển đổi số một cách linh hoạt để có thể điều chỉnh tùy biến

Hình1. Bốn giai đoạn chuyển đổi số Nhật Bản

Giai đoạn 1: Phát triển cơ sở hạ tầng mạng

Giai đoạn này có thể được mô tả là giai đoạn thiết lập cơ sở hạ tầng số, đặc biệt là kết nối số. Năm 1991, Nhật Bản chứng kiến sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng và theo đuổi mục tiêu cải thiện năng suất thông qua việc sử dụng CNTT. Năm 1994, Nội các khi đó đã thành lập Văn phòng cấp cao Xã hội thông tin và truyền thông. Nhiệm vụ của văn phòng này chủ yếu là phát triển cơ sở hạ tầng CNTT, đặc biệt là mạng băng thông rộng. Việc ra mắt văn phòng được lấy cảm hứng từ các sáng kiến như Cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia và Đường cao tốc thông tin do Chính quyền Clinton công bố tại Hoa Kỳ trong cùng thời kỳ.

Giai đoạn 2: Tính phức tạp trong việc sử dụng CNTT

Tỷ lệ thâm nhập internet của Nhật Bản chỉ ở mức khiêm tốn là 30 % vào năm 1999, tụt hậu so với các nước khác trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vào thời điểm đó.

Để ứng phó, Nhật Bản đặt mục tiêu định vị mình là quốc gia công nghệ thông tin hàng đầu và chính phủ đã xây dựng các chiến lược quốc gia để phát triển cơ sở hạ tầng CNTT. Năm 2000, Chiến lược cơ bản về CNTT đã được biên soạn và Luật cơ bản về CNTT đã được ban hành. Văn phòng Xã hội Thông tin và Truyền thông cấp cao đã đưa ra Chiến lược Nhật Bản điện tử vào năm 2001, mở ra kỷ nguyên sử dụng CNTT. Chiến lược này nhằm giải quyết nhiều khía cạnh khác nhau của bối cảnh kỹ thuật số, bao gồm thiết lập mạng lưới Internet tiên tiến nhất thế giới trong vòng năm năm, cung cấp quyền truy cập internet tốc độ cao với mức giá phải chăng cho 30 triệu hộ gia đình, thúc đẩy việc sử dụng CNTT trong các dịch vụ công và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực CNTT. Đáng chú ý là trong khoảng một thập kỷ, tỷ lệ thâm nhập internet của Nhật Bản đã tăng vọt lên 88 % vào năm 2013 và liên tục duy trì mức cao này kể từ đó. Tuy nhiên, nhiều sáng kiến được nêu trong nhiều chiến lược CNTT khác nhau, bao gồm cả "Chiến lược e-Japan", đã không đạt được kết quả mong muốn. Điều này làm nổi bật thực tế là chỉ phát triển cơ sở hạ tầng Internet là không đủ để chuẩn bị cho những tiến bộ hơn nữa của quá trình số hóa và chuyển đổi số.

Ngoài ra, sự bùng nổ của nền kinh tế bong bóng ICT sau sự cố Y2K năm 1999-2000 đã tác động nghiêm trọng đến ngành ICT cũng như các bộ phận hệ thống thông tin của các tổ chức công và tư. Do đó, toàn bộ quá trình phát triển các hệ thống cho chính quyền trung ương và địa phương phần lớn được giao cho các nhà tích hợp hệ thống ICT. Ở một mức độ nào đó, cách tiếp cận này đã dẫn đến tình trạng phổ biến các hệ thống ICT ở cả cấp quốc gia và cấp thành phố trở thành hệ thống đóng và ít tương tác với nhau.

Bất chấp những thách thức này, cơ sở hạ tầng mạng băng thông rộng đã được thiết lập từ những nỗ lực mạnh mẽ về ngân sách và tài trợ của Bộ Nội vụ và Truyền thông (MIC). Chính điều này tạo điều kiện cho sự thâm nhập rộng rãi của các cơ sở và ứng dụng ICT trong số những người dùng cuối ở cả khu vực công và tư trên phạm vi toàn quốc.

Điều đáng nói, trong các khoản ngân sách và tài trợ này, khoản trợ cấp từ MIC được hướng đến đầu tư xây dựng ICT vào các tổ chức công, trang bị máy tính cá nhân cho nhân viên. Trong khu vực tư nhân, các công ty lớn trang bị cho nhân viên của mình máy tính cá nhân theo sáng kiến “Mỗi người một máy tính”, từ nguồn lợi từ các chính sách thuế ưu đãi do Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) và Bộ Tài chính đặt ra. Các ngành khác, như lĩnh vực ngân hàng, đã trải qua quá trình chuyển đổi từ hệ thống máy chủ lớn cũ sang hệ thống phân tán với máy chủ và máy tính cá nhân làm thiết bị đầu cuối của người dùng cuối.

Trong giai đoạn này, email trở nên phổ biến trong công chúng và mạng lưới toàn cầu đã thiết lập vị thế của mình như một nền tảng chung để phổ biến và chia sẻ thông tin trong giai đoạn này. Kết nối Internet từ điện thoại di động cũng bắt đầu ở Nhật Bản, với sự ra đời của dịch vụ i-Mode, một dịch vụ trao đổi dữ liệu qua mạng điện thoại di động vào năm 1999 của Tập đoàn Điện thoại và Điện tín Nippon –NTT. Mặc dù là một hệ thống tiên tiến đi trước thời đại, “i-Mode” đã không phát triển thành một tiêu chuẩn toàn cầu. NTT, nhà cung cấp, đã thiếu sáng kiến trong việc toàn cầu hóa hoạt động kinh doanh của mình, dẫn đến “i-Mode” vẫn bị giới hạn trong Nhật Bản và thiếu khả năng chuyển vùng. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa ra một chiến lược chuẩn hóa toàn cầu ngay từ giai đoạn đầu của quá trình số hóa.

Cùng với sự tiến bộ của số hóa trong các khu vực tư nhân, được tạo điều kiện thuận lợi bởi các chính sách và nguồn tài trợ của METI, quá trình số hóa khu vực công cũng phát triển theo chính sánh “Chiến lược e-Nhật Bản” hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau, bao gồm: (i) thúc đẩy thương mại điện tử, (ii) số hóa khu vực công, (iii) nâng cao trình độ thông tin và (iv) phát triển cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông. Mặc dù các mục tiêu này bao gồm nhiều lĩnh vực số hóa cơ sở hạ tầng của khu vực công và tư nhân, nhưng trọng tâm chính là phát triển cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông, đặc biệt là mạng băng thông rộng bao gồm: (i) đầu tư trực tiếp vào các cơ sở công liên quan đến mạng băng thông rộng, (ii) tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà mạng viễn thông đầu tư vào cơ sở hạ tầng băng thông rộng thông qua các ưu đãi thuế và (iii) bãi bỏ quy định về việc triển khai mạng lưới tư nhân tại các khu vực có hoạt động của chính quyền. Điều này đặt nền tảng cho những nỗ lực số hóa rộng lớn hơn của Nhật Bản trong những năm tiếp theo.

Tuy nhiên giai đoạn này vẫn tồn tại một số trở ngại lớn trong việc thúc đẩy chuyển đổi số trong những năm tiếp theo. Đó là thiếu các quy định, quy chuẩn liên quan đến liên thông kết nối giữa các hệ thống và vẫn chưa loại bỏ hẳn các thói quen, quy định giao dịch dựa trên giấy tờ.

Giai đoạn 3: Sử dụng dữ liệu nâng cao

Bất chấp lịch sử và văn hóa bảo mật dữ liệu của Nhật Bản, tâm lý sợ rủi ro đã trở thành rào cản đáng kể đối với việc chia sẻ dữ liệu. Vào giữa những năm 2010, chính phủ đã xác định được hai trở ngại trong quá trình tiến sâu hơn vào quá trình số hóa ở cả khu vực công và tư. Một là bảo vệ thông tin cá nhân quá mức, dẫn đến việc ẩn hầu hết mọi dữ liệu cá nhân và cản trở các dịch vụ kỹ thuật số. Trở ngại còn lại là khó khăn trong việc liên thông, tích hợp giữa các ứng dụng, hệ thống thông tin của các bộ và thành phố khác nhau.

Để ứng phó với những thách thức như vậy, vào năm 2016, Nhật Bản đã ban hành Đạo luật cơ bản, mang tính bước ngoặt thúc đẩy sử dụng dữ liệu công và tư cung cấp khuôn khổ pháp lý và các ưu đãi để khuyến khích chia sẻ dữ liệu và hợp tác giữa các cơ quan chính phủ và khu vực tư nhân. Đạo luật này ủng hộ các sáng kiến dữ liệu mở, yêu cầu các cơ quan chính phủ cấp quốc gia công bố các tập dữ liệu cho công chúng và khuyến khích sử dụng dữ liệu được lưu trữ trong các tổ chức công và tư.

Năm 2017, ban hành Bản sửa đổi Đạo luật Bảo vệ Thông tin Cá nhân (năm 2003), để tạo điều kiện cho việc sử dụng dữ liệu cá nhân một cách rộng rãi hơn, cho phép các thực thể công và tư xử lý thông tin cá nhân theo các nguyên tắc “tùy chọn” để mở đường cho sự gia tăng của nhiều ứng dụng khác nhau sử dụng dữ liệu cá nhân, nâng cao sự tiện lợi của người dùng và hiệu quả của các cơ quan hành chính công.

Có một điều lưu ý, trong giai đoạn này, một số chính quyền thành phố và đô thị đã có tư duy tiến bộ, bắt đầu triển khai các cổng dữ liệu mở trên các trang web chính thức của họ. Bên cạnh đó, chính quyền trung ương cũng khuyến khích chính quyền địa phương thiết lập cổng dữ liệu của họ và khoảng 70% tất cả các thành phố ở Nhật Bản đã triển khai các cổng dữ liệu mở trên các trang web chính thức của mình vào cuối những năm 2010. Để hỗ trợ thêm cho những nỗ lực này, các cơ quan chính phủ quốc gia có liên quan đã ban hành các hướng dẫn, chỉ dẫn và thông lệ tốt nhất toàn diện cho các chính quyền địa phương. Tuy nhiên, chất lượng dữ liệu mở được công bố vẫn kém hơn so với các thành phố tiên tiến hơn ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Hầu hết dữ liệu được công bố tại các thành phố của Nhật Bản chủ yếu ở định dạng PDF để trình bày. Chỉ có khoảng 5% các thành phố đã công bố dữ liệu của họ ở các dạng có thể xử lý bằng máy như bảng tính...

Tóm lại, Giai đoạn 3 tập trung vào việc chuẩn bị các cơ chế và khuôn khổ pháp lý để sử dụng dữ liệu hiệu quả, đặc biệt chú trọng đến dữ liệu cá nhân. Việc sử dụng dữ liệu trên quy mô lớn sẽ nở rộ trong giai đoạn tiếp theo, đánh dấu sự chuyển đổi tiếp theo trong hành trình chuyển đổi số của Nhật Bản.

Giai đoạn 4: Số hóa toàn bộ xã hội

Những thiếu sót trong quá trình số hóa các hệ thống CNTT của chính phủ ở cả chính quyền trung ương và địa phương ngày càng trở nên rõ ràng hơn vào năm 2020, khi đại dịch COVID-19 quét qua Nhật Bản. Những thách thức bao gồm những khó khăn trong việc thu thập dữ liệu chính xác về bệnh nhân COVID-19 ở cấp địa phương. Những vấn đề này bắt nguồn từ sự phát triển không đồng bộ các hệ thống CNTT khu vực công và các hoạt động lưu trữ dữ liệu rời rạc, phân tán”.

Những thách thức này làm nổi bật sự hạn chế trong quá trình số hóa so với các quốc gia như Hàn Quốc và Singapore. Để ứng phó, tháng 9 năm 2021 Chính phủ của Thủ Tướng Yoshihide Suga đã đặt trọng tâm ưu tiên số hóa như một chính sách quan trọng và thành lập một cơ quan chuyên trách mới chịu trách nhiệm số hóa, chuyên giám sát quá trình số hóa hoàn toàn các hoạt động công và tư phù hợp với kỷ nguyên số trong vòng năm năm. Mục tiêu rộng hơn là hiện thực hóa một xã hội mà lợi ích của số hóa đến được với mọi công dân và cư dân bằng cách thúc đẩy chuyển đổi số trên toàn xã hội, sử dụng dữ liệu một cách chiến lược và tạo ra các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của mọi người. Điều này được nêu rõ trong “Vision for a Digital Garden City Nation -Tầm nhìn về một quốc gia thành phố vườn kỹ thuật số” (viết tắt là "DIGIDEN" tại Nhật Bản) phác thảo một xã hội số hóa toàn diện, nơi mỗi người dùng có thể lựa chọn các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của họ, thúc đẩy, mang lại hạnh phúc thông qua công nghệ số.

Ở giai đoạn này, quỹ đạo hành trình chuyển đổi số của chính phủ đã hòa nhập với quỹ đạo các sáng kiến thành phố thông minh. Theo các chương trình DIGIDEN, chính phủ đang nỗ lực đưa các lợi ích của dịch vụ số đến mọi ngóc ngách của đất nước, hòa nhập với cam kết phục hồi các vùng nông thôn. Các chương trình DIGIDEN cũng bao gồm các nỗ lực sử dụng thẻ “My Number” làm nền tảng chung để xử lý dữ liệu cá nhân và đi đầu trong các mô hình hàng đầu của Xã hội 5.0.

Để làm được điều này, chương trình DIGIDEN xây dựng năng lực cho đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp, mở rộng kết nối kỹ thuật số đến mọi ngóc ngách của đất nước và thúc đẩy luồng dữ liệu cá nhân thông qua nền tảng “My Number”.

Có thể nói các biện pháp của chính phủ Nhật Bản trong Giai đoạn 4 là một trường hợp điển hình về việc áp dụng bốn yếu tố chính của chuyển đổi kỹ thuật số.

Lời kết

Tại Nhật Bản, chuyển đổi số trong chính phủ đã được thúc đẩy trong hơn 20 năm kể từ đầu những năm 2000. Tuy nhiên, trong đại dịch COVID-19 năm 2020 đã phơi bày những yếu kém về tính liên thông, tích hợp hệ thống và dữ liệu của quá trình số hóa trong những năm qua.

Chương trình “Vision for a Digital Garden City Nation -Tầm nhìn về một quốc gia thành phố vườn kỹ thuật số” là sáng kiến ​​thông qua số hóa để chuyển sự tập trung ở các thành phố lớn sang tập trung đa cực ở các vùng nông thôn và khu vực khác, hướng tới một "xã hội mà mọi người đều có thể sống thuận tiện và thoải mái ở bất kỳ đâu tại Nhật Bản" bao gồm bốn trụ cột: (1) giải quyết các vấn đề xã hội bằng công nghệ số, (2) xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số phần cứng và phần mềm, (3) đào tạo và đảm bảo nhân tài kỹ thuật số, và (4) đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau

Người thực hiện

Lê Việt Hưng

Phòng Dịch vụ số

Tài liệu tham khảo:

https://www.japan.go.jp/kizuna/2022/01/vision_for_a_digital_garden_city_nation.html

https://apcoworldwide.com/blog/the-digital-garden-city-nation-opportunities-abound-in-japans-changing-social-landscape/

https://www.soumu.go.jp/johotsusintokei/whitepaper/eng/

https://www.eu-japan.eu/sites/default/files/publications/docs/Digital-Transformation-Japan-Assessing-opportunities-forEU-SMEs

https://www.nbr.org/publication/overcoming-japans-uphill-battle-toward-digital-transformation/

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1897
    • Khách Khách 1895
    • Thành viên Thành viên 2
    • Tổng lượt truy cập Tổng
    • Tổng số lượt truy cập: 3891540